Chúng tôi dịch rattlesnake là rắn rung đuôi phỏng theo tên khoa học của chúng.
Rắn rung đuôi có 2 loại mang tên khoa học là Crotalus và Sistrurus, những
tên này xuất xứ từ tiếng Hy lạp được La tinh hóa.
Crotalus là một nhạc cụ bằng gỗ hình 2 vỏ sò úp vào nhau, các vũ công dùng
các ngón tay đập dụng cụ này tạo thành tiếng cách ! cách ! khi múa.
Sistrurus có nghĩa là bộ phận rung đuôi [tail rattler].
Rắn rung đuôi chỉ có ở châu Mỹ, gồm 36 giống và từ 65-70 giống phụ. Chúng
sống trong nhiều môi trường khác nhau từ tây nam Canada xuống tới miền trung
Argentina.
Tại Mỹ phần lớn rắn rung đuôi sống ở các tiểu bang Texas và Arizona.
Rắn rung đuôi là loài săn mồi [predator]. Mồi của chúng là các loài chim
nhỏ, loài bò sát và gặm nhấm. Chúng dùng nọc độc để giết chết con mồi trước
khi nuốt.
Ngược lại, chúng là con mồi của chim đại bàng và rắn chúa [king snake]. Rắn
chúa miễn nhiễm với mọi nọc độc nên trở thành kẻ thù nguy hiểm nhất của rắn
rung đuôi.
|
Bộ phận rung đuôi
|
Rắn rung đuôi dùng âm thanh phát ra từ bộ phận rung đuôi để hăm dọa kẻ thù
và để xua đuổi những vật tới gần khi chúng đang nghỉ ngơi.
Bộ phận rung đuôi gồm những mảnh rỗng ruột mọc ra từ đuôi và móc vào nhau
thành một chuỗi ở phần cuối đuôi. Những mảnh này được tạo thành do chất
keratin [cũng là chất tạo thành móng tay và lông tóc của con người].
Khi các bắp thịt đuôi vận động, các mảnh rỗng ruột cọ sát nhau tạo thành âm
thanh được tập san National Geographic ghi âm là tssss! Sự rỗng ruột của
những mảnh rung có công dụng tăng âm rung.
Theo Wikipedia, nhịp độ rung trung bình 50 lần/1 giây và có thể lâu tới 3
giờ. Nhưng theo tập san National Geographic, nhịp độ rung lên tới 100 lần/1
giây và lâu tới hàng giờ.
Mỗi năm 2 lần bộ phận rung đuôi được đổi mới cùng với thời kỳ lột xác của
rắn. Rắn mới nở [rắn rung đuôi đẻ con, không như các loài rắn khác đẻ trứng]
chưa mọc bộ phận rung. Chỉ tới kỳ lột xác đầu tiên, rắn mới mọc 1 mảnh rung
và mỗi lần lột xác mọc thêm 1 mảnh cho tới khi trưởng thành thì hoàn tất bộ
rung đuôi.
Bộ rung đuôi dễ bị hư hại nên khi di chuyển rắn phải cất cao đuôi .
Những đặc tính khác của rắn rung đuôi
Khi gặp kẻ thù, rắn rung đuôi tự vệ bằng cách cuộn mình và ngóc cao đầu để
chống trả. Vũ khí của rắn là những răng nanh chứa nọc độc.
Nhưng gặp rắn chúa, rắn rung đuôi dễ bị rắn chúa tấn công thẳng vào đầu vì
miễn nhiễm với mọi nọc độc. Để chống lại rắn chúa, rắn rung đuôi thay đổi
thế thủ bằng cách cúi đầu và cong mình lên như cầu vồng để tạo thành một
thành trì vững chắc.
Rắn rung đuôi giết con mồi bằng nọc độc và chỉ nuốt khi con mồi chết. Khi
con mồi chưa chết và cố chạy đi, rắn theo dõi bằng cách đánh hơi tới nơi con
mồi chết, dùng đầu đẩy con mồi để chắc chắn con mồi đã chết rồi mới nuốt.
Con mồi bị nuốt từ đầu tới đuôi, cách nuốt này khiến cơ thể con mồi nhỏ lại
cho dễ nuốt.
Sau khi nuốt con mồi, rắn tìm nơi yên tĩnh và ấm áp nằm cuộn mình để tiêu
hóa. Lúc này nếu có vật nào tới gần, rắn xua đuổi bằng cách rung đuôi để hăm
dọa.
Rắn rung đuôi dùng mắt và những lỗ nhỏ trên mặt để cảm nhận nhiệt từ con mồi
rồi theo hướng nhiệt bò tới con mồi.
Mắt rắn nhìn được ban đêm. Tuy nhiên chúng không thể nhận rõ hình dạng của
đối tượng, chúng phải theo dõi chuyển động của đối tượng để bổ túc cho khiếm
khuyết của thị giác.
Ngoài mũi, rắn còn lè lưỡi đón nhận những giọt li ti chứa hương vị để đưa
vào bộ phận khứu giác ở dưới vòm miệng.
Rắn rung đuôi không có tai nhưng chúng cảm nhận được tiếng rung động trên
mặt đất.
Khi thời tiết se lạnh, rắn rung đuôi trở về ổ của chúng để ngủ đông. Ổ này
coi như quê quán của chúng vì bao gồm các thế hệ rắn rung đuôi, kể cả bạn và
thù. Mùa đông chúng không cần ăn vì sau khi nuốt mồi chúng cần nằm phơi nắng
mới tiêu hóa được.
Quan hệ giữa các sắc dân bản xứ với rắn rung đuôi
Mối quan hệ của mỗi sắc dân bản xứ với rắn rung đuôi có đôi chút khác nhau.
Người Hopi ở tây nam nước Mỹ coi rắn rung đuôi như sứ giả của Thần Mưa. Mỗi
2 năm người Hopi dùng rắn rung đuôi để cử hành nghi lễ.
Người Aztec ở miền trung Mexico và người Yucatec Maya ở đông nam Mexico tôn
thờ rắn rung đuôi, liên kết rắn với mùa mưa và mùa trồng trọt.
Người Cherokee ở phía nam dãy núi Appalachian của nước Mỹ không giết hại rắn
rung đuôi vì tôn trọng tình gia đình gắn bó của chúng.
Người Apache ở tây nam nước Mỹ và bắc Mexico liên kết chúng với sự tái sinh
[rebirth] và tái tạo [renewal].
Các sắc dân bản xứ khác có văn hóa mang tính bạo lực và phục thù.
Đối với những người châu Âu đầu tiên lập thuộc địa ở châu Mỹ, rắn rung đuôi
là biểu tượng của sự sung sức và gan lì [virility and fearlessness].
Bùi Quý Chiến
Tham khảo
- Wikipedia
- Tập san National Geographic số 06 tháng December 2024
Post a Comment