Bùi Quý Chiến
Palestine ở về tây nam châu Á và là nơi tận cùng về phía đông của Địa trung
hải.
Theo Thánh kinh, đây là nơi Chúa hứa cho dân Do thái nên có địa danh là Miền
đất hứa [Promised Land], cũng gọi là Thánh địa [Holy Land] vì là nơi hành
hương của tín đồ Thiên chúa giáo, Hồi giáo và Do thái giáo.
Palestine từng bị cai trị bởi người Do thái, Ai cập, La mã, Byzantine, Ả rập
và Thổ nhĩ kỳ.
Cổ sử của Palestine
Thiên niên kỷ 4 [millennium 4] Trước Tây Lịch (TTL), cư dân Palestine
chỉ là những người chăn nuôi và trồng trọt. Sang TNK 3 TTL mới mọc lên các
đô thị, nơi trao đổi hàng hóa của Ai cập và Babylon .
Tới TNK 2 TTL, Palestine bị người Hyksos và Ai cập cai trị. Cuối thời kỳ
này, Moses đưa dân Do thái [bị Ai cập bắt làm nô lệ] ra khỏi Ai cập, vượt
Sinai vào Palestine.
Vào khoảng 1200 TTL, người Philistines xâm lăng Palestine và thành lập nơi
đây một vương quốc hùng mạnh.
Năm 1000 TTL, Saul lãnh đạo dân Do thái giành độc lập và thành lập vương
quốc Do thái. David kế vị Saul và tiếp theo là Solomon kế vị David.
Sau cuộc bành trướng của triều đại Solomon [950 TTL], vương quốc chia làm 2
nước: Israel với thủ đô là Samaria và Judah với thủ đô là Jerusalem.
Năm 720 TTL, Assyria chinh phục Israel và Babylon chinh phục Judah.
Đền thờ Do thái bị tàn phá năm 586 TTL.
Năm 539 TTL, Ba tư chinh phục Babylon, đền thờ Do thái được xây cất lại.
Dưới sự cai trị của Ba tư, Do thái được tự trị rộng rãi.
Năm 333 TTL, Alexander đại đế chinh phục Do thái.
Năm 142 TTL, Dân Do thái nổi dậy thành lập quốc gia mới, cho tới năm 63 TTL
thì bị La mã chinh phục.
Thiên chúa giáo và Hồi giáo
Năm 66 Tây lịch, dân Do thái nổi dậy nhưng bị La mã đàn áp và thành
Jerusalem bị tàn phá. Những năm 132-135 dân Do thái lại nổi loạn nhưng cũng
bị La mã đàn áp; thêm thành phố Jericho và Bethlehem bị tàn phá. Ngoài ra
dân Do thái còn bị cấm vào thành Jerusalem.
Khi Constantine đại đế của La mã cải đạo theo Thiên chúa giáo, Palestine trở
thành trung tâm hành hương của Thiên chúa giáo khiến phần lớn dân Do thái bỏ
nước ra đi. Vài thế kỷ sau đó, Palestine được hưởng hòa bình thịnh vượng cho
tới khi bị Ba tư [Perse] chinh phục. Tuy nhiên ngay sau đó La mã lấy lại
quyền cai trị Palestine.
Cho tới năm 640, người Hồi giáo dưới triều Caliph Umar chinh phục Palestine
và biến nơi đây thành Thánh địa của Hồi giáo. Năm 691 đền thờ Dome of The
Rock được xây trên nền đền thờ của Do thái. Người Hồi giáo tin rằng đây là
nơi Mohamad lên Thiên đàng. Kế bên Dome là đền Aqsa xây năm 750.
Tới TK 9, Palestine bị Fatimid chinh phục. Triều đại này nổi lên từ Bắc châu
Phi. Fatimid có nhiều kẻ thù nên Palestine trở thành bãi chiến trường.
Dưới triều Fatimid Caliph al Hakim [ 996-1012 ] người Thiên chúa giáo và Do
thái bị áp chế tàn bạo và nhiều nhà thờ bị tàn phá.
Năm 1099 Đoàn quân Thánh chiến - gồm những tín hữu Thiên chúa giáo ở châu Âu
- đánh chiếm Palestine và thành lập vương quốc La tinh Jerusalem.
Năm 1187, Saladin - lãnh tụ Hồi giáo của Syria và Ai cập - đánh bại quân
Thánh chiến. Vương quốc La tinh chấm dứt. Cuối cùng, năm 1291, quân Thánh
chiến bị Mamluk loại khỏi Palestine.
Thổ nhĩ kỳ cai trị
Năm 1516, Mamluk bị Ottoman Turk đánh bại.
Trong 3 thế kỷ đầu do Ottoman cai trị, Palestine bị cô lập với thế giới bên
ngoài.
Năm 1831 Phó vương Ai cập là Muhammad Ali - chư hầu của Ottoman Sultan -
đánh chiếm Palestine.
Dưới quyền Ali và con, Palestine được tiếp xúc với các nước châu Âu.
Năm 1840, Ottoman tái chiếm Palestine nhưng ảnh hưởng của châu Âu vẫn tiếp
tục.
Năm 1882, lần đầu tiên trên đất Palestine, những khu định cư của di dân Do
thái và người Nga gốc Do thái xuất hiện.
Tranh chấp giữa Do thái và Ả rập
Cuối thế kỷ 19 , phong trào Zionism do người Do thái chủ trương nhằm vận
động thành lập quốc gia Do thái trong Palestine.
Cư dân ở vùng quê phần lớn là nông dân Ả Rập theo đạo Hồi. Ở thành thị có
người theo Thiên chúa giáo như ở Nazareth, Bethlehem và Jerusalem; có người
theo Do thái giáo như ở Zefat, Tiberias, Jerusalem, Jericho, Hebron.
Cùng thời này, chủ nghĩa quốc gia Ả rập được khai triển ở Trung đông để
chống lại sự thống trị của Thổ nhĩ kỳ.
Trong thế chiến 1, với sự hỗ trợ của Khối Ả rập, nước Anh chiếm đóng
Palestine. Trong bản tuyên bố Balfour năm 1917, Anh hứa với các nhà lãnh đạo
Zionist rằng sẽ giúp thành lập nước Do thái trong Palestine nhưng quyền của
những người không phải Do thái trong Palestine phải được quan tâm. Anh cũng
hứa sẽ yểm trợ việc thành lập các quốc gia Ả rập độc lập. Khối Ả rập tin
rằng lời hứa đó bao gồm cả Palestine. Nhưng suy diễn này bị nước Anh phủ
nhận sau đó.
Tính đến năm 1919, Palestine có 568,000 người Hồi giáo, 74,000 Thiên chúa
giáo và 58,000 Do thái giáo.
Năm 1920 Palestine xảy ra những cuộc nổi dậy của dân Ả rập chống Do thái.
Cho tới 2 năm sau, nhằm ổn định tình hình, Hội Quốc liên - tiền thân của
Liên hiệp quốc - mới ủy nhiệm nước Anh cai trị Palestine. Quyền ủy nhiệm gồm
việc thành lập nước Do thái và việc di dân Do thái từ các nơi về Palestine.
Theo Bạch thư năm 1922, nước Anh chủ trương nước Do thái không bao gồm toàn
thể Palestine và số di dân Do thái có giới hạn, tùy thuộc tình hình kinh tế.
Năm 1922 số di dân Do thái không nhiều nhưng các cộng đồng Do thái tạo được
tiến bộ về kinh tế.
Năm 1925 xảy ra cuộc bạo động nghiêm trọng giữa người Do thái và Ả rập tại
Bức tường phía tây [Western Wall] cũng gọi là Bức tường than khóc [Wailing
Wall] ở Jerusalem.
Bức tường này là di tích đền thờ Do thái thời lập quốc nên tín đồ Do thái
giáo tới đây cầu nguyện, cũng có người thương khóc.
Theo tường trình của chính quyền Anh, người Ả rập sợ hậu quả tai hại về kinh
tế và chính trị do kế hoạch di dân Do thái và việc họ mua đất của người Ả
rập.
Nước Anh ra Bạch thư sẽ hạn chế việc di dân Do thái khiến các lãnh đạo
Zionist nổi giận nhưng được Thủ tướng Anh xoa dịu.
Năm 1930 chủ nghĩa Quốc xã ở châu Âu nổi lên khiến số di dân Do thái gia
tăng. Năm 1932 số lượng di dân được chấp thuận là 5,000 người, năm 1935 tăng
lên 62,000 người.
Dân Ả rập đình công và tẩy chay. Cuộc tổng đình công năm 1936 kéo dài tới 6
tháng. Một số dân Ả rập mua súng và thành lập Lực lượng du kích.
Không thể hòa giải được người Do thái và Ả rập, nước Anh dự trù chia
Palestine làm 3: nước Do thái, nước Ả rập và một khu vực ủy nhiệm do nước
Anh cai trị. Do thái lưỡng lự chấp thuận nhưng Ả rập cương quyết chống lại,
nhất là điều khoản quy định người Ả rập phải ra khỏi nơi dự trù thành lập
nước Do thái.
Từ bỏ kế hoạch phân chia, nước Anh thông báo chính sách mới:
- Mỗi năm nhập cư dân Do thái 15,000 người trong vòng 5 năm, sau đó số lượng di dân Do thái phải được Ả rập chấp thuận.
- Hạn chế việc mua đất.
- Trong vòng 10 năm gây dựng một chính thể lưỡng quốc binational] độc lập.
Phía Do thái choáng váng vì cho rằng Tuyên bố Balfour bị phản bội. Phía Ả
rập cũng phản đối và đòi hỏi phải thành lập ngay một Palestine Ả rập, cấm di
dân thêm và xét lại tình trạng pháp lý của di dân Do thái từ năm 1918.
Thế chiến 2 bùng nổ khiến kế hoạch của nước Anh bị ngăn trở, trừ việc hạn
chế mua bán đất đai.
Nước Anh được Do thái và Ả rập yểm trợ suốt cuộc thế chiến. Tuy nhiên tình
trạng căng thẳng trong Palestine vẫn gia tăng. Tổ chức võ trang bí mật
Haganah và nhóm khủng bố Irgun của Do thái hoạt động rất mạnh. Các quan chức
người Anh bị quân khủng bố giết chết.
Tình trạng thảm khốc của người Do thái ở châu Âu khiến những lực lượng gây
ảnh hưởng [fluential forces] ở Mỳ vận động cho một nước Do thái độc lập.
Tổng thống Truman đòi nước Anh cho nhập cư 100,000 người phần lớn là nạn
nhân còn sống sót của Hitler .
Các quốc gia Ả rập độc lập liên kết nhau thành Liên đoàn Ả rập để tạo sức ép
quốc tế chống lại chủ nghĩa Zionism.
Năm 1946 Ủy hội Anh Mỹ khuyến nghị nước Anh tiếp tục cai trị Palestine, hủy
bỏ việc hạn chế mua đất, cho nhập cư 100,000 di dân và rằng các nhóm võ
trang bí mật phải bị cấm đoán.
Năm 1947 Hội nghị London gồm các đại biểu Anh, Do thái và Ả rập không đạt
được thỏa hiệp về kế hoạch tự trị cho Do thái và Ả rập trong Palestine. Nước
Anh tuyên bố thất bại trong việc ủy nhiệm và trả lại Liên hiệp quốc vụ
Palestine. Vào lúc này, Palestine có 1,091,000 người Hồi giáo, 614,000 Do
thái giáo và 146,000 Thiên chúa giáo.
Theo nghiên cứu và đề nghị của Uỷ hội đặc biệt về Palestine, lãnh thổ này
được chia ra thành một nước Do thái, một nước Ả rập và một vùng nhỏ gồm
Jerusalem do Quốc tế cai trị.
Ngày 29-11-1947 Đại hội đồng Liên hiệp quốc chấp thuận đề nghị của Ủy hội.
Do thái chấp thuận kế hoạch của LHQ nhưng Ả rập bác bỏ.
Đầu năm 1948 quân đội Anh rút về nước, Do thái tuyên bố độc lập. Ngay sau đó
Jordan và Ai cập đánh chiếm West Bank và Gaza là nơi LHQ dành riêng để lập
nước Ả rập Palestine.
Năm 1967 Do thái đánh bại Jordan và Ai cập, chiếm đóng West Bank và Gaza và
khởi sự định cư các cộng đồng Do thái tại 2 nơi này.
Do thỏa ước Oslo [1993-1995] người Palestine được tự trị có giới hạn trong
vùng Do thái chiếm đóng.
Năm 2005 Do thái rút quân đội và các cộng đồng định cư ra khỏi Gaza nhưng
vẫn dành quyền kiểm soát phần lớn West Bank mặc dù Palestine liên tục chống
cự.
Bùi Quý Chiến
Tham khảo:
- American Heritage Dictionary of The English Language.
- The Columbia Electronic Encyclopedia.
No comments:
Post a Comment