Ngày 11 tháng 2 năm 2023, vài tờ báo và trang mạng trong nước đưa tin: Vũ
Hoàng Chương đã từng được đề cử Giải Nobel Văn Chương (The Nobel Prize in
Literature).
Danh sách được Ủy Ban Nobel công bố trong tháng 2, năm 2023, sau 50 năm giữ
kín theo quy định của giải này. Theo đó, Vũ Hoàng Chương là một trong 100 tác
giả tên tuổi được đề cử giải Nobel Văn Chương năm 1972.
Vũ Hoàng Chương (1915-1976), quê quán ở Hưng Yên. Trước 1945, ông có hai thi
phẩm nổi tiếng vào thời tiền chiến là Thơ Say (Hà Nội 1940) và Mây (nhà xuất
bản Đời Nay, Hà Nội 1943). Kịch Thơ: Trương Chi (1944), Vân Muội (1944), Hồng
Diệp (1944)… Tiếp tục sự nghiệp sáng tác, ông có 15 tập thơ, các vở kịch thơ.
Nhà thơ Vũ Hoàng Chương, tên tuổi nổi bật trong phong trào Thơ Mới (1932-1945)
và được gọi “Thi Bá Vũ Hoàng Chương”
Hoài Thanh và Hoài Chân trong Thi Nhân Việt Nam đã nhận xét:
“Vũ Hoàng Chương định nối cái nghiệp những thi hào xưa của Đông Á: cái
nghiệp “say” nhưng “say sưa có chừng mực, say sưa mà không hẳn là trụy
lạc”.
Năm 1954, ông di cư vào Nam, định cư Sài Gòn, tiếp tục sáng tác. Ông được
người đương thời ở miền Nam xưng tụng là thi bá.
Vũ Hoàng Chương giữ chức vụ Chủ Tịch Trung Tâm Văn Bút Việt Nam (của miền Nam
Việt Nam) từ năm 1969-1973.
Theo tài liệu của Viện Hàn Lâm Thụy Điển, “Thang Lang” là người đã tiến
cử Vũ Hoàng Chương. Đây có thể là Linh Mục Thanh Lãng (1924-1978), đỗ tiến sĩ
văn chương tại đại học Fribourg, Thụy Sĩ. Giáo sư văn chương giảng dạy đại học
Văn Khoa Sài Gòn, đại học văn khoa Huế, tác giả của nhiều công trình nghiên
cứu văn học.
Giải Nobel Văn Chương năm 1972 là nhà văn người Đức Heinrich Böll (1917-1985).
Heinrich Böll được đề cử nhận giải Nobel liên tục từ năm 1960 đến lúc đoạt
giải. Trong lịch sử giải Nobel Văn Chương, có ít tác giả đoạt giải ngay từ lần
đầu được đề cử. Và cũng có nhiều tác giả dù được đề cử nhiều lần nhưng không
đoạt giải.
Cũng có nhiều nhà văn xuất hiện trong danh sách năm 1972, sau này đoạt giải
Nobel Văn Chương như Patrick White (ông đoạt giải năm kế tiếp, 1973), Nadine
Gordimer, V.S. Naipaul, Doris Lessing (mãi đến năm 2007 bà mới đoạt giải)…
Nhà văn Hồ Hữu Tường (1910-1980) có tên trong danh sách đề cử giải Nobel Văn
Chương năm 1969. Người giới thiệu là nhà thơ Đông Hồ (3/1906-3/1969). Việc đề
cử theo thư mời của Ủy Ban Nobel gởi đến các nước trên thế giới…
(Ban Giám Khảo của Hàn Lâm Viện Thụy Điển tuyển chọn tác phẩm các nước được
dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp… Nhà văn Hồ Hữu Tường (1910-1980) tuy học tại
Đại học Marseille, Pháp đã ấn hành nhiều tác phẩm nhưng chưa có tác phẩm nào
ấn hành với hai ngôn ngữ nầy nên việc đề cử không hợp lý (?). Nhà thơ Vũ
Hoàng Chương đã có thi phẩm và các bài thơ được dịch qua hai ngôn ngữ
nầy).
Nhà thơ, nhà giáo Vũ Hoàng Chương trong hai thập niên ở Sài Gòn chỉ theo đuổi
trên lãnh vực văn học và giáo dục nhưng sau năm 1975, Vũ Hoàng Chương bị bắt
giam (ngày 13 tháng 5 năm 1976) bốn tháng Chí Hòa, lâm trọng bệnh, thân xác
tàn tạ, cho về nhà, 5 ngày sau, mất ngày 17 tháng 9 năm 1976.
*
Nhà thơ Vũ Hoàng Chương, khuôn mặt quen thuộc trên thi đàn Việt Nam và quốc
tế:
-
Năm 1959: Tham dự Hội Nghị Thi Ca Quốc Tế, tại Knokke-Le Zoute, nước Bỉ.
- Năm 1964: Tham dự hội nghị Văn Bút Á Châu họp tại Bangkok.
- Năm 1965: Tham dự Hội Nghị Văn Bút Quốc Tế họp tại Bled, Nam Tư cũ.
-
Năm 1967: Tham dự Hội Nghị Văn Bút Quốc Tế họp tại Abidjan, thủ đô Côte
d’Ivoire (Phi Châu).
- 1969-1973: Chủ Tịch Trung Tâm Văn Bút Việt Nam.
Với các thi phẩm ở miền Nam Việt Nam:
- Rừng Phong, nxb Phạm Văn Tươi, Sài Gòn, 1954
-
Hoa Đăng, nxb Văn Hữu Á Châu, Sài Gòn 1959. Tập thơ này được giải thưởng
Văn Chương Toàn Quốc về thi ca.
-
Tự tái bản 2 tập thơ Say và Mây in chung vào 1 tập mang tên Mây, Sài Gòn
1960
-
Tái bản Vân Muội, Trương Chi, Hồng Diệp, nxb Nguyễn Đình Vượng Sài Gòn
1961
-
Kịch thơ Tâm Sự Kẻ Sang Tần, nxb Lửa Thiêng, Sài Gòn 1961 (ấn hành lần đầu
năm 1951)
- Tự xuất bản tập Trời Một Phương, Sài Gòn 1962
-
Xuất bản Nhị Thập Bát Tú I, nxb Văn Uyển; Tập II, nxb Lửa Thiêng, Cành Mai
Trắng Mộng, nxb Văn Uyển, Sài Gòn 1968.
- Ta Đợi Em Từ Ba Mươi Năm, nxb An Tiêm, Sài Gòn, 1970.
- Ngồi Quán, nxb Lửa Thiêng, Sài Gòn 1971.
-
Đời Vắng Em Rồi Say Với Ai, nxb Lửa Thiêng, Sài Gòn 1971 (Phần I: Tuổi Học
Trò, 17 bài thơ đầu tay 1936-1939).
- Chúng Ta Mất Hết Chỉ Còn Nhau, nxb Rừng Trúc, Paris 1974.
-
Hồi ký: Ta Đã Làm Chi Đời Ta, gồm 12 bài, nxb Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn 1974
Thi phẩm của Vũ Hoàng Chương được dịch sang tiếng Pháp, Anh, Đức:
-
Cảm Thông (nhan đề Anh ngữ là Communion); gồm 6 bài thơ mới sáng tác sau
cuộc Âu du và 9 bài cũ lựa chọn lấy tính cách tiêu biểu; do Nguyễn Khang,
bạn thân với vũ Hoàng Chương, phiên dịch và xuất bản.
-
Tập thơ Tâm Tình Người Đẹp (nhan đề Pháp ngữ là Les 28 Étoiles); gồm 42
bài thơ Nhị Thập Bát Tú, kèm theo bản dịch ba bài thơ của nữ thi sĩ Bỉ
Simone Kuhnen de La Coeuillerie (thành viên của nước Bỉ trong Hội Nghị
Quốc Tế Về Thơ); nxb Nguyễn Khang.
-
Ánh Trăng Đạo, do nha Tuyên Uý Phật Giáo, Sài Gòn ấn hành 1966; Die
Achtundzwanzig Sterne, thơ dịch ra tiếng Đức ngữ, do nxb Hoffmann Und
Campe, Hamburg, Đức. Dịch giả là thi sĩ Áo Kosmas Ziegler, cùng năm.
Năm 1959, khi Vũ Hoàng Chương Tham dự Hội Nghị Thi Ca Quốc Tế, gặp gỡ nhà thơ
nữ Ysabel Baes mới 15 tuổi đã có một thi tập được được Maison du Poète tại thủ
đô Bruxelles xuất bản năm 1959.
Với “duyên tình văn nghệ”, Vũ Hoàng Chương gọi Ysabel là Y Sa, và bày
tỏ tình cảm qua bài thơ Công Chúa Mười Lăm, bài thơ dài với 40 phân đoạn, mỗi
đoạn 4 câu thơ thất ngôn. Toàn bài có 160 câu thất ngôn.
Trong tập Thi Tuyển (Poèmes Choisis), Nguyễn Khanh ấn hành năm 1963 cũng có
một số tranh phụ bản của Ysabel.
(Năm 1944, Vũ Hoàng Chương lập gia đình với bà Đinh Thị Thục Oanh, chị ruột
của nhà thơ Đinh Hùng, ông bà không có con, đứa con nuôi là Vũ Hoàng
Tuân). Hai nhà thơ cũng thuộc loại “nòi tình” nên dễ cảm thông nhau. Nhà
thơ Đinh Hùng (1920-1967) nổi tiếng với hai tập thơ Mê Hồn Ca (1954) và Đường
Vào Tình Sử (1961)
(tác phẩm này được trao giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc về thi ca năm
1962, sau Vũ Hoàng Chương).
Với khuôn mặt lẫy lừng trong thi ca Việt Nam từ thời tiền chiến đến hai thập
niên ở miền Nam Việt Nam nên có nhiều bài viết về nhà thơ Vũ Hoàng Chương.
Nhân bản tin đề cập đến Vũ Hoàng Chương là một trong 100 tác giả tên tuổi được
đề cử giải Nobel Văn Chương năm 1972, nên không đề cập đến thơ của ông mà
những hệ lụy xảy ra.
Trong hồi ký Ta Đã Làm Chi Đời Ta ông đã nhắc lại thời điểm sinh hoạt văn nghệ
trước và sau năm 1945 (tác phẩm nầy ấn hành ở trong nước năm 1993).
Trong cuốn Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ, Nam Chi Tùng Thư, Sài Gòn 1970) của họa sĩ
Tạ Tỵ, người bạn văn nghệ chí thân của thi sĩ Vũ Hoàng Chương gọi thơ Vũ Hoàng
Chương là “tiếng thở dài của phương Đông trầm mặc”.
Trong thời kỳ kháng chiến, năm 1946, ông tản cư khỏi thành phố, không ra bưng.
Cuối năm 1949, khi hai gia đình đang ở vùng Đống Năm, Thái Bình. Quân Pháp
tràn tới, Việt Minh rút chạy. Dân chúng đành mạnh ai nấy chạy. Hai gia đình Vũ
Hoàng Chương và Đinh Hùng cũng chạy theo mọi người từ làng nọ tới làng kia.
Sau ba ngày, lương thực mang theo cạn hết. Cuộc chạy loạn của những người gốc
thành thị cũng có phần lúng túng, khó khăn, phần vì cụ bà thân mẫu nhà thơ Vũ
Hoàng Chương đã cao tuổi, phần vì vợ nhà thơ Đinh Hùng vừa sinh con được một
tháng (Đinh Hoài Ngọc).
Sáng ngày thứ năm, khi đang tìm cách chạy sang làng bên cạnh vì chỗ đang ở tạm
không thể tìm được gì để ăn thì quân Pháp ập tới. Có lính Lê Dương
(légionaires), lính Bắc Phi (da đen rạch mặt)… Hai bên bờ ruộng xuất hiện một
số binh sĩ Việt Nam
(sau mới biết họ thuộc Bảo Chính Đoàn của chính phủ Quốc Gia VN).
“Họ bắc loa kêu gọi đồng bào tản cư hãy trở về Hà Nội để tránh bom đạn xảy
ra.”
Trong hoàn cảnh ấy, nhà thơ Đinh Hùng đành dùng tiếng Pháp đối đáp với toán
lính đang tiến gần tới. Họ đưa cả hai gia đình đến gặp một sĩ quan Pháp. Ông
này giao cho một binh sĩ Việt Nam thu xếp chỗ ở tạm và ăn uống cho mọi người.
Được mấy hôm, một người bạn văn nghệ của thi sĩ Vũ Hoàng Chương thuở trước từ
Hà Nội tới. Ông ta thu xếp xe để hôm sau chở cả hai gia đình về Hà Nội, và đưa
thi sĩ Vũ Hoàng Chương mấy trăm tiền Đông Dương để khi về thành có tiền tiêu
ngay. Khi về tới Hà Nội, không ngờ vị trưởng ban Hồi Cư tiếp đón và lo liệu
cho mọi người lại chính là anh rể của bà Thục Oanh và thi sĩ Đinh Hùng. Không
hề dự liệu trước, hành trình bỏ vùng Việt Minh về thành của hai nhà thơ họ Vũ
và họ Đinh xảy ra một cách đột ngột.
Khi về thành, không thấy Vũ Hoàng Chương đề cập đến chuyện chính trị nữa. Mùa
thu năm 1948, qua đầu 1950 lại sống yên ổn ở Hà Nội dưới một thể chế chính trị
đối nghịch, ông không thể không cảm thấy có chỗ mâu thuẫn.
Cuối tháng 8 năm 1954, gia đình ông và gia đình thi sĩ Đinh Hùng di cư vào
miền Nam.
Ở Sài Gòn, nhà thơ Vũ Hoàng Chương được đãi ngộ trong sinh hoạt Văn Học Nghệ
Thuật, có thể nói ông là nhà thơ may mắn được đề cử xuất ngoại tham gia qua
những cuộc Hội Thảo Thi Ca nhưng ông lại có quan điểm khác với những bạn văn
cùng thời đã di cư vào Nam. Bài viết của Đặng Tiến, Paris, 2001 cho biết:
“Vũ Hoàng Chương là người thiết tha với vận mệnh dân tộc và đất nước, gắn
bó với kỷ niệm Hàng Khay, Hàng Trống hoa nào rụng, nhất định phải kỳ vọng
vào hiệp định 27-1-1973 sẽ mang lại thanh bình cho đất nước, và ngày thống
nhất sẽ không xa. Dù rằng kỳ vọng ấy chỉ rung một giây đàn lẻ loi, và sau
này sẽ không đúng với thực tế: đất nước sẽ thanh bình và thống nhất, nhưng
trong những điều kiện khác – mà Vũ Hoàng Chương sẽ là nạn nhân”.
Nhưng Đặng Tiến không trích dẫn những bài thơ nào của Vũ Hoàng Chương
“kỳ vọng vào hiệp định 27-1-1973” và
“thanh bình cho đất nước, và ngày thống nhất sẽ không xa” vào thời điểm
nầy.
Nhắc đến Hiệp Định Paris năm 1973, hiệp định được ký kết với áp lực của Mỹ,
chính quyền VNCH, Chủ Tich Hạ Viện Nguyễn Bá Cẩn và Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu phản đối những điều khoảng trong hiệp định nầy. Và, từ hiệp định nầy tạo
cơ hội cho CSVN cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam vào ngày 30/4/1975.
Vũ Hoàng Chương đã trải qua trong thời kỳ kháng chiến ngoài Bắc, di cư vào Nam
lại nhận thức hời hợt về chính trị và “thơ ngây” như vậy sao?
Theo Tạ Tỵ thì thơ của Vũ Hoàng Chương là
“tiếng thở dài của phương Đông trầm mặc” có lẽ đúng vì nhiều bài thơ
của ông nói lên thân phận của kiếp người trên quê hương, trên đất nước nhược
tiểu từ thập niên bốn mươi.
Rồi sau ngày 30/4/1975, nhà thơ Vũ Hoàng Chương
“chứng nhân thời cuộc” khi miền nam VN bị nhuộm đỏ!
(Không thấy tài liệu nào đề cập Vũ Hoàng Chương “niềm nở” tiếp đón những
người bạn thơ năm xưa từ Bắc vô Nam)
Trong bài viết của ông Hoàng Quốc Hải trên tạp chí Sông Hương năm 2009: Gặp bà
Thục Oanh - nhớ thi tài Vũ Hoàng Chương, ghi:
“Trước 1975, Vũ Hoàng Chương sống tàm tạm, là nhờ ở sự tần tảo và cần kiệm
của bà Thục Oanh. Nhà nghèo thế mà khi ông Vũ Hoàng Địch (em trai nhà thơ)
vào thăm sau 30-4-1975, Vũ Hoàng Chương còn có gom góp đủ tiền mua được mười
mét gấm, gởi tặng nữ sĩ Ngân Giang ngoài Hà Nội”. (Nhà thơ Ngân Giang năm 1946 lên chiến khu Việt Bắc, sau năm 1954 làm việc
ở Sở Văn Hóa Hà Nội, Hội Nhà Văn Việt Nam. Năm 1961 bà về quê sinh sống trong
cuộc sống lầm than, trải hơn ba mươi năm cho đến ngày từ giã cõi đời).
Theo nhà văn Hải Bằng HDB trong cuốn sách về nhà thư họa Vũ Hối (Vũ Hối: 60
năm Văn Học Nghệ Thuật…), trang 37), thì Vũ Hoàng Chương là tác giả cặp câu
đối:
“Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý
Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do”
Hai câu đối nầy được truyền tụng giữa người dân trong nước với nhau.
Theo bài viết của Phạm Công Bạch với Giai Thoại Về Vũ Hoàng Chương theo lời kể
của Sông Lô trên tạp chí Sông Hương:
Sau tháng 4/1975, phái đoàn từ Bắc vô Nam cùng với Huy Cận như còn có nhiều
nhân vật khác như Tố Hữu, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Vũ Đình Liên… Phái đoàn
được ký giả nằm vùng Thanh Nghị tiếp đón và tổ chức một đêm
“họp mặt văn nghệ” với các nhân vật gạo cội miền Nam để cùng đánh giá
văn hoá hai miền ngõ hầu thống nhất tư tưởng về một mối. Buổi họp này Vũ
Hoàng Chương đã được mời và có tham dự. Đề tài được đưa ra là mấy câu thơ
của Tố Hữu đã làm để khóc Stalin khi ông trùm đỏ Liên Xô này chết vào
năm 1953. Hai câu thơ đã gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp cùng đầy đủ
tiếng khen chê đối với tên trùm văn nghệ cộng sản này là câu:
“Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười”
Thanh Nghị với tư cách nằm vùng theo cộng sản từ lâu, coi như đại diện miền
Nam, dĩ nhiên ca ngợi thơ Tố Hữu hết mình. Rồi lần lượt đến Xuân Diệu, Huy
Cận, Vũ Đình Liên từ ngoài bắc vào lên diễn đàn thì khỏi nói. Cũng cần có
một tiếng nói miền Nam cho xôm tụ, cho nên Hoài Thanh khẩn khoản mời Vũ
Hoàng Chương lên phát biểu với dụng ý là họ Vũ, một thi bá đương thời, nhưng
vốn người trầm mặc hiền hoà chắc cũng chỉ vuốt theo mà không nói điều gì
nghịch ý…
Sau đây là lời của Vũ Hoàng Chương:
“Thi nhân từ cảm xúc mỗi lúc tác động vào tâm cảnh của mình, để hồn trí phản
ứng theo thất tình con người mà vận dụng thi tứ phổ diễn nên lời một tình tự
nào đó, rồi đãi lọc thành thơ. Sự vận dụng càng xuất thần, việc phổ diễn
càng khẩu chiếm, thơ càng có giá trị cao.
Cảm xúc trước cái chết của một thần tượng được ‘đóng khung’ tự bao giờ trong
tâm cảnh mình, Tố Hữu đã xuất thần vận dụng nỗi u hoài, phổ diễn nên những
lời thơ thật khẩu chiếm, rồi dùng những từ thật tầm thường, ít thi tính, đãi
lọc nỗi u hoài của mình thành một tiếng nấc rất tự nhiên, đạt đến một mức độ
điêu luyện cao. Lời thẩm định của Thanh Nghị thật xác đáng, tôi chịu. Nhưng
thơ không phải chỉ có thế. Xuất thần khẩu chiếm thuộc phạm vi kỹ thuật, dù
đã có thi hứng phần nào, và nếu chỉ có thế thì thơ chỉ có khéo mà thôi, chưa
gọi là đạt; tức chưa phải là hay. Thơ hay cần phải khéo như thế vừa phải đạt
thật sự.
Thi hứng nằm trong sự thực của tình tự phổ diễn nên lời. Tình tự mà không
thực, lời thơ thành gượng ép. Vấn đề của thơ, nói cho đến nơi, là ở đây, có
nghiã là thơ phải thực.
Tố Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng một bà mẹ Việt Nam, muốn bà
dùng mối u hoài của một nhà thơ để dạy con trẻ Việt Nam yêu cụ Stalin thay
cho mình. Cũng chẳng sao vì đó cũng là một kỹ thuật của thi ca; nhưng trước
hết phải biết bà mẹ Việt Nam có cùng tâm cảnh với mình không, có chung một
mối cảm xúc hay không?
Tôi biết chắc là không. Bởi trong đoạn trên của hai câu lục bát này trong
bài ‘Đời Đời Nhớ Ông’ của Tố Hữu đã đặt vào lời bà mẹ hai câu:
“Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin”
Chắc chắn là không có một bà mẹ Việt Nam nào, kể cả bà Tố Hữu, mà thốt được
những lời như vậy một cách chân thành. Cái không thực của hai câu này dẫn
tới cái không thực hai câu sau ta đang mổ xẻ. Một tình tự không chân thực,
dù được luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải
là thơ đẹp, thơ hay, mà chỉ là thơ khéo làm; đó chỉ là thơ thợ chứ không
phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thợ thơ nào lành nghề cũng quen
làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là nếu có đòi hỏi một tuyên truyền nào
đó. Tố Hữu nếu khóc lấy, có lẽ là khóc thực, khóc một mình. Nhưng bà mẹ Việt
Nam trong bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm”.
Vẫn theo lời kể của Sông Lô thì lời thẩm định này đã gây sôi nổi trong
đám thính giả có mặt hôm đó. Muốn phản bác luận điệu của Vũ Hoàng Chương, có
người đã yêu cầu ông nói về thơ để hòng bắt bẻ này nọ, nhưng ông vẫn ôn tồn
phát biểu:
Thơ vốn là mộng, là tưởng tượng, là tách rời thực tế, nhưng mộng trên những
tình tự thực. Không chấp nhận loại thơ tình tự hoang. Có khoa học giả tưởng,
không có thơ giả tưởng. Nói thơ là nói đến thế giới huyễn tưởng, huyễn tưởng
trên sự thực để thăng hoa sự thực, chứ không bất chấp, không chối bỏ sự
thực. Nhà thơ không được láo; nhà thơ phải thực nhưng thoát sáo sự thực
thành mộng để đưa hồn tính người yêu thơ vươn lên sự thực muôn đời đạt đến
chân lý cuộc sống. Thiên chức thi ca là ở chỗ đấy.
Tôi xin nhắc: “Sự thực muôn đời là cơ sở duy nhất của thi ca; vì có sự thực
cho riêng một người, có sự thực cho riêng một thời, nhưng vẫn có sự thực cho
muôn đời, sự thực bao quát không gian, thời gian, chân lý cuộc sống.”
Sau đêm hôm ấy, hình như có một buổi họp khẩn cấp của các
“nhân vật then chốt” cộng sản, và Vũ Hoàng Chương đã bị bắt. Như
vậy cái tội phản động của thi sĩ họ Vũ không phải là một mà có đến ba: bắt đầu
từ bài thơ thời sự, kế đến không nể nang tình bạn và sau cùng là đã dạy khôn
cho kẻ đang thắng thế. Theo Sông Lô thì Vũ Hoàng Chương không phải là người
dại, cũng không phải người can đảm mà ông chính là người của tự do không phải
quị lụy trước bất cứ một áp lực nào.
Như vậy thì từ hai câu đối đến cuộc “họp mặt văn nghệ” thì Vũ Hoàng
Chương bị Cộng Sản xếp vào loại phản động nên bị bắt giam!
Nhà văn Mai Thảo trong bài viết
“Mấy Tháng Cuối Cùng Với Vũ Hoàng Chương” trong tập Chân Dung,
NXB Văn Khoa 1985
Trích:
Vượt qua cây cầu Calmette soi bóng trên một con kinh tù đọng, con kinh chạy
dọc theo vùng ngoại vi tràn lan náo nhiệt nhất của Sài Gòn là khu Chương
Dương, Ông Lãnh, chiếc xe đạp lọc cọc chở tôi đi trên một mặt nhựa lồi lõm,
đụng tới tòa nhà xám bẩn của hãng làm phân bón thì rẽ trái và lăn vào một
con đường trải đá xanh…
… Chiếc xe chở tôi rẽ phải trên một con đường nhỏ, yên tĩnh, rẽ trái vào một
con đường nhỏ yên tĩnh nữa, rồi tới một đầu ngõ khuất khúc. Tôi xuống xe,
dắt bộ tới cuối ngõ, tới trước một căn nhà gỗ hai tầng. Đẩy một cánh cổng
khép hờ đi vào, tôi đã tới Gác Bút của Vũ Hoàng Chương.
Thi sĩ mới dọn về đây ít lâu sau biến cố tháng Tư 1975, cái tiểu gia đình
gươm đàn nửa gánh gồm có thi sĩ, người bạn trăm năm của ông là nữ sĩ Đinh
Kiều Oanh và đứa con trai nuôi là Vũ Hoàng Tuân, ông đặt tên cho con bằng
lấy tên Tuân của Nguyễn Tuân, nhà văn viết tùy bút rất hay và là bạn thân
của thời kỳ tiền chiến.
Địa chỉ mới của Vũ Hoàng Chương nguyên là chỗ ở của gia đình thi sĩ Đinh
Hùng, em vợ ông ngày trước. Chỗ ở này sinh thời, Đinh Hùng, tự xưng là Đinh
Công Tử, nghịch ngợm đặt tên là động Hoa Lư, trong cái ý nhà vua xưa Đinh Bộ
Lĩnh dấy nghiệp ở động Hoa Lư thì Đinh Hùng đời sau cũng có một động Hoa Lư
ở phường Cây Bàng như thế. Đinh Hùng mất, vợ con vẫn ở, tên Hoa Lư vẫn còn.
Nhưng từ Vũ Hoàng Chương dọn về ở chung, Hoa Lư còn có thêm một tên mới. Đó
là Gác Bút.
Hỏi tại sao không dùng lại tên Gác Mây của căn lầu trên vùng Phú Nhuận vừa
rời bỏ, thi sĩ cười, hóm hỉnh: “Đổi đời, giờ là Gác Bút mới đúng. Vì Hà Nội
nó bắt ta gác hết bút lên rồi, đâu còn cho viết nữa.”…
… Thời gian này, sức khỏe của Vũ Hoàng Chương đã hết sức suy nhược và gia
cảnh thì đã rớt xuống tới đáy cùng của túng thiếu cùng quẫn. Những tháng sau
cùng ở Gác Mây, Phú Nhuận, ông đã đau yếu rất nhiều. Trong lồng ngực mỏng,
con tim đã yếu. Trên cái vóc hạc, xế chiều đã tới. Vũ Hoàng Chương gần như
không ra khỏi nhà nữa. Lên xuống mấy bậc thang lầu, cũng phải đứng lại nhiều
lần để thở. Có việc phải đi đâu, bao giờ cũng phải Đinh Kiều Oanh cùng đi. Ở
Gác Mây anh em văn nghệ đã phải chia lượt tới viếng thăm ông đau yếu nhiều
lần. Đem thuốc thang tới nữa.
Về Gác Bút, tình trạng sức khỏe của thi sĩ càng mong manh. Những thiếu thốn
vật chất, mặc dầu thi sĩ chẳng còn nhu cầu gì - ông đã bỏ thuốc phiện - càng
làm trầm trọng mau chóng sự mong manh ấy. Ở Gác Bút, ông gầy teo, gần như
không đi xuống tầng dưới nữa. Nhiều buổi chiều tôi tới, ông đắp một tấm chăn
mỏng, nằm mỏi mệt thiêm thiếp trên mặt sàn trống trải, hình ảnh cuối đời hợp
nhập với hình ảnh hoàng hôn thẫm mầu đang hắt hiu buông xuống ở chung quanh…
… Thời gian ấy sống gần ông (mấy tuần chót ở Gác Mây, mười tháng ở Gác Bút
trước bắt giữ), cho tới buổi trưa ngày 30 tháng 11 năm 1976, từ chỗ ẩn một
vùng ngoại ô Chợ Lớn âm thầm trở lại phường Cây Bàng lần cuối để thắp một
nén hương vĩnh biệt trước di ảnh bạn, cho tới những buổi trưa đảo nằm một
mình trong một đáy rừng Mã Lai Á khuất tịch, tôi thường suy nghĩ, tìm kiếm
lý giải, về một vận động từ bi thảm đưa tới thăng hoa sung sướng phóng thoát
của một đời người. Vũ Hoàng Chương đã có được thăng hoa ấy. Qua thái độ ông,
buổi sáng bị bắt. Trong bốn tháng nằm trong hầm tối. Trong năm ngày cuối
cùng trở về Gác Bút. Bằng vào những chi tiết chị Vũ kể lại, sẽ được nói tới
ở phần sau này. Tâm thức tôi, thiếu hụt tầm vóc, không sao đạt tới được
thăng hoa như bạn. Bởi vậy mà giải thích hiện tượng, rất buồn thảm. Và cũng
rất cực nhọc…
... Từ cộng sản chiếm được miền Nam, hơn ba triệu người Sài Gòn đều “nói” Vũ
Hoàng Chương. Thấy nhau là “Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa”. Gặp nhau là
“Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ...”. Thật cảm động và cũng thật tức cười.
Và đó cũng là một lý do nữa trong những lý do gây tai họa sắp tới cho thi
sĩ…
… Thời gian này, ngày bầu cử Quốc Hội Thống Nhất mà Hà Nội thực hiện trong
mục đích xóa bỏ hoàn toàn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, sắp tới. Trong chiều
hướng hạ nhục, không cho văn nghệ sĩ miền Nam có tội đi bầu và như vậy mặc
nhiên bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, một chiến dịch đả kích thô bạo và cực
kỳ dữ dội lại bùng nổ trên báo chí, đài phát thanh cộng sản. Lần này là nhất
tề khai pháo. Là đồng loạt tấn công. Từ tờ Cộng Sản, tờ Học Tập, tờ Văn
Nghệ, tờ Giai Phẩm Mới tới các tờ Giải Phóng hàng tuần và hàng ngày ở Sài
Gòn. Kết tội. Lên án. Đòi trừng phạt. Nhằm vào các “nhà văn chống cộng” của
miền Nam, nặng nề nhất là nhóm Sáng Tạo. Từ cơ quan được gọi là Bảo Vệ Văn
Hóa đặt tại một căn nhà số chẵn đường Hai Bà Trưng, nơi bọn Vũ Hạnh, Sơn Nam
hàng ngày thì thọt lui tới, với những bản báo cáo mật (thực ra cơ quan này
là một bộ phận của An Ninh Thành Ủy Đảng, đặc trách về văn nghệ “ngụy”), bản
danh sách 44 người sẽ bị bắt đã được hoàn tất, mỗi nhà văn miền Nam có tên
trong sổ đen đã mỗi người có một hồ sơ tội trạng riêng.
Tôi được thấy một phần hồ sơ tôi. Bởi nữ ca sĩ Mỹ Hòa. Hòa bây giờ ở Pháp,
lúc đó có nhà riêng ở Thị Nghè, trước rạp Cao Đồng Hưng và giao du rất thân
thiết với Hoài Bắc. Một tối Hòa mời tôi và Hoài Bắc sang nhà ăn cơm. Rồi nói
với tôi:
- Từ nay anh đừng ở mãi một địa chỉ nữa. Mà phải có ba bốn địa chỉ khác mới
được. Một thằng an ninh đương chạy theo bọn em, em nói khéo, nó cho xem hồ
sơ. Anh Hoài Bắc không sao. Chúng định bắt rồi thôi. Tên anh thì chắc có
rồi. Tội một chồng đầy. Chỗ nào tội nặng đều có khoanh bút chì đỏ. Anh phải
sống lưu động đi mới được. Đừng chịu trận một chỗ cho chúng đến bắt làm chi.
Tôi không nói gì. Cũng chẳng nghĩ gì, chẳng tính được gì trước tự do của
mình chỉ còn đếm từng giờ, từng phút… Trước sau cũng như nhau. Cũng bị bắt.
Chẳng có vấn đề gì nữa. Riêng còn Vũ Hoàng Chương. Tôi vẫn còn nuôi ý nghĩ
và hy vọng là riêng ông, riêng địa vị văn học đặc biệt của ông, cộng sản sẽ
để ông yên. Trên ý nghĩ đó, tôi trở lại phường Cây Bàng buổi tối hôm sau. Có
như biết mình lâm nguy rồi, mà không đến từ biệt bạn ở lại, ở tôi có điều gì
không phải vậy…
Đó là lần gặp mặt cuối cùng với Vũ Hoàng Chương. Không bao giờ tôi còn được
gặp ông nữa… Biết mình sắp bị bắt, có thể đã bị theo dõi, tôi nghĩ không nên
ngồi lâu nữa. An ninh cộng sản có cái kiểu bắt được một người ở đâu, bắt
luôn chủ nhà theo. Tôi lục tìm trong đám sách vở, bản thảo để bừa bãi trên
mặt chiếu, lấy ra tập Nhị Thập Bát Tú có câu thơ
“Xiết bao ngờ vực kiếp người đó ư?” viết thêm vào đó một câu nữa. Rồi
ký tên và đề ngày tháng. Hôm đó là ngày 28 tháng 3 năm 1976…
… Buổi sáng ngày 13 tháng 4 năm 1976 (phần hồi ký này viết theo lời chị Vũ
Hoàng Chương thuật lại) là một buổi sáng ấm áp, nhưng đêm trước lộng gió,
lạnh, thi sĩ bị cảm, đã 9 giờ còn đắp chăn nằm trên mặt sàn, không sao ngồi
dậy được. Mọi người trên Gác Bút, trừ chị Chương, đã ra khỏi nhà. Chúng đến,
từ phía Sài Gòn. Bốn chiếc Jeep đầy nhóc an ninh áo vàng mang súng ống như
cho một hành quân lớn ầm ầm vượt qua cầu Calmette, khu chợ Khánh Hội, phóng
thẳng tới phường Cây Bàng và ngừng lại trước con ngõ nhỏ dẫn vào Gác Bút.
Bọn an ninh cộng sản, trên 20 đứa, tới tấp nhẩy xuống xe. Khoảnh khắc, cả
phường Cây Bàng bị vây kín… Chúng chạy rầm rập, trí súng, mai phục theo tư
thế chiến đấu, phá tan bầu không khí yên tĩnh của cả phường Cây Bàng buổi
sáng hôm đó. Dân chúng xung quanh Gác Bút thất kinh. Có người hỏi, chúng trả
lời:
“Phải huy động một lực lượng lớn lao như thế này để tóm trọn ổ một bọn
cướp (!) lợi hại”.
Sự náo động đột ngột dưới chân tường Gác Bút, tiếng la thất thanh của chị Vũ
Hoàng Chương từ trên lầu chạy xuống khi bọn sát nhân xô cửa ập vào đánh thức
thi sĩ khỏi giấc ngủ chập chờn. Ông gắng gượng ngồi dậy, lấy áo gấm mặc vào
người, ngồi thật thẳng giữa chiếu, bất động, chờ đợi… Ông không kinh hãi,
cũng không phẫn nộ. Ông không bất ngờ, cũng chẳng ngạc nhiên. Chỉ ngồi
thẳng, thành tượng, mắt nhắm lại, thu hết tâm thức đã hợp nhật với đời đời
vào nội giới đóng kín… Suốt thời gian này, thi sĩ không thèm nói với chúng
một lời nào. Chúng hỏi, ông không trả lời. Chúng đọc bản cáo trạng, lệnh bắt
giữ, ở ông chỉ một thoáng nhún vai rồi ngồi yên như cũ. Riêng chị Vũ Hoàng
Chương không sao thản nhiên được, chị uất ức gào lên:
“Chồng tôi làm gì mà bắt chồng tôi?” Thì được tên thủ trưởng của bọn
quỷ dữ trả lời là sau đại thắng của cách mạng, tên thi sĩ phản động kia vẫn
còn làm thơ chống phá cách mạng và cho phổ biến khắp Sài Gòn những bài thơ
chống phá chế độ ấy. Rồi là cuộc lục soát và tịch thu tàn nhẫn. Từ những
cuốn sách đến từng tờ bản thảo. Lúc mặt trời đứng bóng trên mái lầu Gác Bút,
cuộc lục soát xong, hai thằng lực lưỡng nhất bọn quỷ tiến lại, xốc nách thi
sĩ đứng lên, kèm ông xuống cầu thang. Dân chúng láng giềng với Gác Bút đứng
chật lòng con ngõ khi chúng dẫn thi sĩ đi ra và đưa thẳng ông vào khám lớn
Chí Hòa…
… Hơn 4 tháng nằm trong ngục tối của thi sĩ, không ai có được những chi tiết
đầy đủ. Kể cả chị Đinh Hùng, chị Vũ Hoàng Chương, cháu Vũ Hoàng Tuân, cháu
Đinh Hoài Ngọc, những người đêm ngày ở cạnh chỗ nằm của ông suốt 5 ngày hấp
hối. Trở về Gác Bút, thể chất trút thoát dần dần những tinh khí cuối cùng,
thần trí Vũ Hoàng Chương vẫn cực kỳ minh mẫn sáng suốt. Tới đêm lâm chung.
Tới phút từ trần. Nhưng thi sĩ không nói, không nói một lời nào về bốn tháng
Chí Hòa. Ngày thứ hai của năm ngày chót ông mê đi. Tưởng ông đi, chị Vũ
Hoàng Chương lớn tiếng kêu khóc. Ông dịu dàng: “Tôi còn sống đây”.
Rồi nói đùa: “Bị bắt vẫn còn oai. Được thủ tướng hầu hạ”. Thủ tướng
đây là bác sĩ Phan Huy Quát, ở cạnh phòng ông, phòng tối số 6. Buổi chiều
ngày thứ ba, ông quằn quại đau đớn hết một lúc. Thấy vậy chị Vũ Hoàng Chương
lo lắng hỏi: “Ở trong ngục anh có bị chúng hành hạ gì không?” Ông trả
lời: “Chúng cần gì hành hạ. Chỉ bỏ đói là đủ cho mình chết”. Vậy
thôi. Ngày thứ năm, ngày 17 tháng 9, 1976, Gác Bút yên tĩnh với thi sĩ nằm
đó, trên mặt sàn hiu quạnh. Rồi ngày hết, đêm xuống. Và định mệnh mở rộng
cánh tay như một lớp sóng mênh mông vô tận đón ông vào đời đời lúc đó là vừa
đúng 12 giờ đêm…!
(Mai Thảo)
Bài thơ Trong Khám Chí Hòa của Vũ Hoàng Chương vào năm 1976:
“Thấm thoắt vào đây tháng đã tròn,
Lông hồng gieo xuống nhẹ như non.
Một manh chiếu nát, thân tơi tả,
Nửa bát cơm hôi, xác mỏi mòn.
Ngày đến bữa ăn thường nhớ vợ,
Đêm về giấc ngủ lại thương con.
Dẫu bao nước chảy qua cầu nữa,
Hồ dễ gì phai được tấc son!”
Hơn bốn thập niên sau, thi ca Vũ Hoàng Chương không còn được đề cập đến ở trong nước,
một đời thơ của ông bị lãng quên, chôn vùi theo thân xác. Trong những tác phẩm
đề cập đến những áng thơ hay trong Thi Ca Việt Nam nhưng cũng
“quên” dòng thơ thi bá.
Sau năm 50 (1972-2023), danh sách được Ủy Ban Nobel Thụy Đển công bố, tên tuổi
nhà thơ Vũ Hoàng Chương mới được khơi dậy. Nếu ông được Nobel Văn Chương năm
1972 như nhà văn Alexander Solzhenitsyn năm 1970,
(năm 1974, Liên Xô trục xuất văn hào Alexander Solzhenitsyn “lưu đày hải
ngoại” vì xem ông thuộc thành phần cầm bút phản động nguy hại cho chế
độ...)
thì sau năm 1975, nhà thơ Vũ Hoàng Chương biết đâu chừng sẽ không bị bắt giam vào khám Chí
Hòa mà có thể “bị” trục xuất "lưu đày nơi hải ngoại" đến một quốc gia tây phương nào đó, như Thuỵ Điển chẳng hạn, vì Thuỵ Điển là quốc gia ủng hộ csVN thời bấy giờ; và biết đâu, nơi đó có bóng dáng người thơ năm
xưa Ysabel Baes.
Little Saigon, Feb 14, 2023
Vương Trùng Dương
Post a Comment