Bùi Quý Chiến
Tháng giêng năm Mậu tí (1288) Trần Khánh Dư thắng trận Vân đồn khiến quân
Nguyên mất hết lương thực.
Theo lời bàn của các tướng tham mưu, Thoát Hoan quyết định rút quân về nước.
Thủy quân do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy rút trước theo sông Bạch đằng (hạ
lưu của sông Kinh thầy từ huyện Thủy nguyên chảy ra biển). Đại quân rút sau do
A Bát Xích và Trương Ngọc mở đường; chặn hậu do Trình Bằng Phi và Trương Quân
đảm trách.
Biết kế hoạch rút quân của Thoát Hoan, Hưng Đạo Vương một mặt lệnh cho Nguyễn
Khoái theo đường tắt tới sông Bạch đằng đóng cọc nhọn khắp lòng sông, một mặt
lệnh cho Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa đem quân lên ải Nội bàng (Lạng sơn)
mai phục. Về phần Vương đem đại quân về đóng dinh tại xã A sào huyện Phụng dực
(nay thuộc huyện Quỳnh phụ tỉnh Thái bình).
Nguyễn Khoái cho quân chặt cây đẽo nhọn, đợi thủy triều xuống đóng cọc khắp
lòng sông ở vùng Đá bạc thuộc huyện Thủy nguyên tỉnh Kiến an (nay là huyện
ngoại thành của Hải phòng), sau đó lấy cỏ phủ lên để che đậy.
Khi tiền quân của Ô Mã Nhi tới sông Bạch đằng, Nguyễn Khoái cho người phi báo
với Hưng Đạo Vương đang đóng dinh tại làng A sào. Làng này ở bên sông Hóa.
Vương khẩn cấp đưa quân qua sông để tiến lên Bạch đằng.
Nhằm tạo khí thế xuất quân, Vương chỉ tay xuống sông Hóa thề rằng:
"Trận này không phá xong giặc Nguyên, thề không trở về sông này nữa".
Quân sĩ hưởng ứng dạ ran.
Sông Hóa là sông nhánh của sông Luộc, chia nước sông Luộc ra biển và ngày nay
là địa giới thiên nhiên của thành phố Hải phòng và Thái bình.
Khi đại quân qua sông, thủy triều xuống rất thấp, dân làng A sào phải đem rơm
rạ và ván gỗ ra lót bờ sông cho voi của Hưng Đạo Vương vượt sông. Tới lòng
sông, nước cạn không đủ cho voi nổi lên, voi bị sa lầy . Quân và dân không có
cách nào đưa voi lên bờ bên kia, trở lui cũng không được.
Vì cuộc hành quân cấp bách, Vương đành bỏ voi đi bộ cùng quân sĩ. Voi biết
mình bị bỏ lại, rống lên mấy tiếng đau đớn và hai hàng nước mắt chảy ra. Động
lòng, Vương cũng không cầm được nước mắt. Quân sĩ chứng kiến cảnh đó lộ vẻ nao
núng vì cho là điềm xấu lúc xuất quân.
Nhằm trấn áp quân sĩ, Vương tuốt kiếm ra và nghiêm giọng:
"Ta thương voi trung với nước và có nghĩa với ta chứ không phải sợ điềm bất
thường. Kẻ nào nản lòng coi chừng lưỡi kiếm của ta".
Quân sĩ lại nức lòng lên đường.
Hưng Đạo Vương và đại quân tới Đá bạc vừa lúc thủy triều xuống và Nguyễn Khoái
đang phản công khiến chiến thuyền của giặc lọt vào bãi cọc bị lật nhào. Vương
liền phối hợp thủy và bộ binh đánh tan đoàn chiến thuyền của giặc. Quân Nguyên
lớp chết đuối, lớp bị giết, lớp bị bắt. Trong số bị bắt có Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp
và Tích Lệ Cơ Ngọc. Ta tịch thu hơn 400 chiến thuyền.
Cùng lúc ấy Thượng hoàng và Nhân Tông chỉ huy một cánh quân khác kéo tới.
Thượng hoàng sai dẫn các tướng Nguyên bị bắt tới thuyền ngự cùng ngồi uống
rượu để tỏ lượng khoan hồng.
Thắng trận trở về, Hưng Đạo Vương qua sông Hóa được biết con voi đã chết chìm
giữa lòng sông. Để tỏ lòng thương tiếc, Vương cho xây một tượng đài hình con
voi tại bờ sông với một bàn thờ lộ thiên. Từ đó có địa danh Bến Voi. Dân làng
A sào đến nay vẫn còn lưu truyền tích con voi của Hưng Đạo Vương và lấy làm
vinh dự làng mình được dùng làm nơi đóng quân và kho chứa lương thảo trong
cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên.
Bến Voi kế cận cầu Nghìn ngày nay.
Quốc lộ 10 từ Thái bình vượt qua cầu Nghìn sang thành phố Hải phòng.
Qua bản đồ thành phố Hải phòng chúng ta có thể suy đoán ra trục tiến quân của
Hưng Đạo Vương từ bến Voi tới bãi cọc Đá Bạc.
Đó là quốc lộ 10. Tuy hệ thống giao thông đường bộ do thực dân Pháp thực hiện
nhưng họ chỉ mở rộng và cán đá rải nhựa những đường xưa và xây dựng cầu cống.
Quốc lộ 10 từ bến Voi tới phà Rừng, rẽ về phía tây hữu ngạn sông Bạch đằng là
tới bãi cọc Đá bạc.
Khởi đi từ thành phố Ninh bình, quốc lộ 10 xuyên qua các tỉnh ven biển: Nam
định, Thái bình, thành phố cảng Hải phòng và Quảng ninh. Các tỉnh này là những
vựa lúa của châu thổ sông Hồng và sông Thái bình. Ninh bình còn là cái nôi của
văn hóa Tràng an với di tích kinh đô Hoa lư của Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại
Hành.
Bùi Quý Chiến
------------------------------------
THAM KHẢO
- Việt nam sử lược của Trần Trọng Kim.
- Hưng Đạo Vương của Lê Văn Phúc và Phan Kế Bính.
- Bản đồ Việt nam của Nhà xuất bản bản đồ.
Subscribe to:
Post Comments
(
Atom
)
Theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim (https://www.sachhayonline.com/tua-sach/viet-nam-su-luoc/quyen-i-phan-iii-chuong-viii/295)
ReplyDeleteCác tướng đi đâu đấy cả rồi. Hưng-đạo-vương tiến quân lên đánh giặc, sực nghe tin báo rằng Ô mã Nhi đã kéo quân về đến Bạch-đằng, Hưng-đạo-vương mới hô quân sĩ, trỏ sông Hóa-giang[6] mà thề rằng: « Trận này không phá xong giặc Nguyên, thì không về đến sông này nữa! » Quân-sĩ ai nấy đều xin quyết chiến, kéo một mạch đến sông Bạch-đằng.
Theo Việt Sử Toàn Thư của Phạm Văn Sơn (https://cvdvn.files.wordpress.com/2018/03/vie1bb87tse1bbadtoc3a0nthc6b0_phamvanson.pdf)
Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa phục kích ở cửa ải Nội Bàng (thuộc Lạng Sơn).
Việc bố trí xong, Hưng Đạo Vương hô quân sĩ trỏ xuống Hóa Giang cùng thề: "Trận này không phá được giặc thề không trở lại khúc sông này nữa!"
Sau lời quyết liệt này, quân ta kéo thẳng tới sông Bạch Đằng.
Trong cả hai tài liệu ghi trên, không thấy đề cập đến việc lời thề này xảy ra trước khi con voi của Trần Hưng Đạo bị sa lầy.
Trong khi nếu dùng Google tìm tòi thêm chi tiết qua search pattern "Lời thề bên Sông Hóa," thì sẽ thấy có khá nhiều chỗ nói là lời thề đó được đưa ra khi Trần Hưng Đạo không thể cứu được con voi của ông đang bị sa lầy bên Sông Hóa.
Do vậy, xin được hỏi tác giả Bùi Quý Chiến là ông đã dựa vào sử liệu hay tài liệu nào mà trong bài biên soạn của ông đã ghi là lời thề bên sông Hóa: "Trận này không phá xong giặc Nguyên, thề không trở về sông này nữa" của Trần Hưng Đạo lại được đưa ra TRƯỚC KHI con voi quý của Vương bị sa lầy bên sông Hóa.