Phạm Văn Tuấn
Mao Trạch Đông là nhà lãnh đạo xuất sắc của nước Trung Hoa Cộng Sản, đã tham
dự rất nhiều trận mạc trong thời kỳ nội chiến, đã đưa Đảng Cộng Sản Trung Hoa
tới thắng lợi và đẩy lui Quốc Dân Đảng cùng quân đội của Tướng Tưởng Giới
Thạch (Jiang Jieshi) qua hòn đảo Đài Loan. Kể từ năm 1943, Mao Trạch Đông đã
duy trì một địa vị độc tôn trong Bộ Chính Trị của Đảng Cộng Sản Trung Hoa và
từ năm 1945, là nhân vật không thể bị thay thế trong Ủy Ban Trung Ương của
đảng C.S. kể trên.
Vào ngày 01 tháng 10 năm 1949 tại Quảng Trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh
(Tiananmen), Mao Trạch Đông đã công bố cho toàn thế giới biết việc thành lập
nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (the People's Republic of China) rồi kể từ
năm đó, Mao không ngừng theo đuổi công việc cải tiến nước Trung Hoa thành một
xứ sở hùng mạnh và thịnh vượng.
Tuy nhiên, các phong trào hay chiến dịch cải cách của Mao, chẳng hạn như chiến
dịch "Chống Cánh Hữu" (the Anti-Rightist Campaign), phong trào
"Bước Đại Nhẩy Vọt" (the Great Leap Forward) (1958-59) và cuộc
"Cách Mạng Văn Hóa" (the Cultural Revolution) (1966-69) đã đưa nước
Trung Hoa vào các mê hồn trận của ý thức hệ, khiến cho đất nước này tụt hậu so
với các nước đang phát triển.
Kể từ cuộc Chiến Tranh Nha Phiến (1839-42), Trung Hoa đã bị nhiều nước bên
ngoài chèn ép. Mao Trạch Đông đã dùng nhiều chiến thuật và quân đội nhân dân
trang bị ý thức hệ Cộng Sản để chiếm chính quyền, chấm dứt cảnh nghèo khó của
người dân, xóa đi các tàn tích xâm lăng của phương tây. Vào lúc đầu của thời
kỳ cách mạng, Liên Xô đã giúp đỡ rất tích cực Trung Hoa và đảng cộng sản của
Mao, nhưng quan hệ này dần dần trở nên căng thẳng và bị chấm dứt trước khi xẩy
ra cuộc Cách Mạng Văn Hóa.
Từ khi là Chủ Tịch của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Mao Trạch Đông đã
được tôn thờ cá nhân, được gọi là
"Vị Lãnh Tụ vĩ đại", "Vị Cứu Rỗi của nước Trung Hoa" (Savior of China)... Sự tôn thờ vì sức mạnh ý thức hệ này còn lan ra bên ngoài đất nước khiến
cho Trung Hoa mất đi nhiều cơ hội phát triển kinh tế.
1/ Thuở thiếu thời.
Mao Trạch Đông sinh ngày 26 tháng 12 năm 1893, trong một gia đình trung lưu,
thuộc làng Thiểu Sơn (Shaoshan) huyện Tương Đoàn (Xiangtan) tỉnh Hồ Nam
(Hunan). Ông Tổ của Mao đã từ tỉnh Giang Tây (Jiangxi) di cư tới đây trong
thời đại nhà Minh, lập gia đình với người địa phương và làm nghề nông.
Thân phụ của Mao là Mao Châu Thẩm, một nông dân có tính tình vừa tiết kiệm,
vừa tham lam và bà mẹ tên là Vương Kim Muội, một người đàn bà siêng năng, hiểu
biết và tốt bụng. Mao Trạch Đông là con trưởng, được cha cho đi học vì
ông ta vốn mù chữ, cần tới người con biết viết để giúp đỡ ông khi ghi chép
công việc thương mại.
Trong cuộc Cách Mạng Năm 1911, Mao đã tham gia vào quân đội địa phương của
tỉnh Hồ Nam, nhưng vì không thích hợp với binh nghiệp, nên Mao đã trở về đi
học tại Trường Sa (Changsha) và tốt nghiệp trường Sư Phạm vào năm 1918. Vào
dịp Phong Trào Ngũ Tứ (the May Fourth Movement), Mao đã cùng với ông thầy dạy
trung học khi trước là Dương Trường Tế (Yang Changji) đi lên Bắc Kinh.
Sau đó, ông Dương trở thành một nhân viên trong Đại Học Bắc Kinh, nên đã giới
thiệu Mao Trạch Đông làm nhân viên phụ tá thư viện của trường đại học, giúp
việc Lý Đại Siêu (Li Dazhao) khi đó làm quản thủ thư viện. Vào thời gian này,
Mao đã theo học tại trường đại học, được đọc nhiều bài văn của một số nhà trí
thức danh tiếng như Trần Độc Tú (Chen Duxiu), Hồ Thích (Hu Shi) và Tiền Tuyển
Đồng (Qian Xuantong)...
Cũng tại thư viện của trường, Mao đã đọc nhiều sách viết ra do các nhà trí
thức danh tiếng đương thời là Khang Hữu Vi (Kang Youwei) và Lương Khải Siêu
(Liang Qichao), cũng như các bản dịch sang tiếng Hoa của các vị này từ các
sách của J.J. Rousseau, Montesquieu..., tìm hiểu các tư tưởng của nhà cách
mạng Tôn Dật Tiên (Sun Yatsen) và học thêm lý thuyết Cộng Sản.
Vào thời gian này, Mao đã kết hôn với người bạn học là cô Dương Khai Tuệ (Yang
Khaihui), con gái của giáo sư Dương Trường Tế kể trên, mặc dù Mao có một người
vợ tại quê nhà và đã không chấp nhận người này vì trước kia khi mới 14 tuổi,
bị cha bắt ép kết hôn với người vợ lớn hơn 4 tuổi đời.
Sau đó, Mao đã không đi du học tại nước Pháp vì nhà nghèo. Mao đã nói về sau
rằng sở dĩ ông không muốn ra khỏi nước bởi vì tin tưởng rằng các vấn đề khó
khăn của Trung Hoa phải được nghiên cứu và giải quyết bên trong nước này và
Mao đã tìm hiểu giới nông dân là đa số quần chúng rồi bắt đầu một cuộc đời
theo cách mạng cộng sản.
Vào ngày 23 tháng 7 năm 1921, khi ở lứa
tuổi 27, Mao đã tham dự Hội Nghị Toàn Quốc của Đảng Cộng Sản họp tại thành phố
Thượng Hải (Shanghai) và hai năm sau, trong kỳ họp thứ ba của Hội Nghị kể
trên, Mao được bầu làm một trong năm ủy viên của Ủy Ban Trung Ương Đảng.
Mao đã sống tại thành phố Thượng Hải
trong một thời gian bởi vì đảng Cộng Sản muốn cuộc cách mạng xẩy ra tại nơi
này. Nhưng sau khi đảng này gặp nhiều khó khăn vì tổ chức các phong trào lao
động và khi tiếp xúc với phe Trung Hoa Quốc Gia, Mao đã vỡ mộng về cuộc cách
mạng, nên đã dời về quê nhà là Thiểu Sơn. Tại nơi này, Mao được báo tin về các
cuộc nổi dậy vào năm 1925 tại Thượng Hải và Quảng Châu. Sau đó, Mao đi Quảng
Đông là căn cứ của Quốc Dân Đảng, tham gia vào việc chuẩn bị kỳ họp lần thứ
hai của Đại Hội Quốc Gia của Quốc Dân Đảng.
Vào đầu năm 1927, Mao trở lại Hồ Nam
rồi trong một kỳ họp của đảng Cộng Sản, đã báo cáo về các khảo cứu các cuộc
nổi dậy của giới nông dân, đây là bước khởi đầu và quyết định để Mao áp dụng
các lý thuyết cách mạng của mình tại Trung Hoa.
2/ Tư tưởng Cộng Sản.
Tại Bắc Kinh và trước khi kết hôn với Dương Khai Tuệ, Mao đã đọc ba cuốn sách
dẫn dắt tới niềm tin vào chủ nghĩa Mác Xít trong số này có cuốn
Bản Tuyên Ngôn của đảng Cộng Sản (the Manisfesto of the Communist Party). Tuy nhiên, Mao dần dần trở nên con người Mác Xít sau khi đã đọc nhiều sách
báo khác và vào năm 1920, Mao đã viết nhiều bài báo biện hộ cho quyền tự trị
của tỉnh Hồ Nam bởi vì Mao tin tưởng rằng mỗi tỉnh tự trị sẽ làm cho nước
Trung Hoa giàu có và hùng mạnh hơn.
Cũng do đọc cuốn truyện Thủy Hử (Outlaws of the Marsh), một trong bốn
tác phẩm lớn của văn chương cổ điển Trung Hoa, Mao đã đồng ý nên dùng cách
mạng bạo lực phối hợp với các kinh nghiệm của cuộc Cách Mạng Nga, để giai cấp
vô sản dưới sự chỉ đạo của đảng Cộng Sản, sẽ lật đổ chế độ phong kiến và đế
quốc. Vào năm 1920, Mao đã giúp công vào việc nghiên cứu, tuyên truyền và tổ
chức các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân thành thị, nhưng vì giới này
chỉ gồm một số nhỏ quần chúng, và các cuộc nổi dậy không võ trang không thể
giải quyết được các vấn đề. Vì thế, Mao bắt đầu trông cậy vào giới nông dân,
điều chỉnh lý thuyết và thay đổi cách áp dụng chiến lược, khiến cho họ trở
thành các kẻ ủng hộ đường lối cách mạng bạo động, đây là sự khác biệt giữa Mao
và các người Trung Hoa theo cộng sản trước kia và cùng thời.
3/ Cách Mạng và Chiến Tranh.
Vào năm 1927, Mao Trạch Đông là người chỉ huy cuộc Nổi Dậy Mùa Thu (the Autumn
Harvest Uprising) tại Trường Sa, thuộc tỉnh Hồ Nam, nhưng cuộc bạo động này đã
bị chính quyền địa phương dẹp tan và Mao cùng với một số đồng chí còn lại đã
bỏ chạy qua khu miền núi Tỉnh Cương Sơn (Jinggang Mountains). Trên con đường
rút lui, Mao đã tổ chức lại đám tàn quân, thiết lập cách tổ chức quân sự mới,
chủ trương bình đẳng giữa sĩ quan và binh lính và đảng Cộng Sản có quyền tuyệt
đối chỉ huy quân lực.
Tại Tỉnh Cương Sơn, Mao đã thuyết phục
được hai tướng cướp địa phương là Viên Văn Tài và Vương Tá theo mình đồng
thời toán quân của Chu Đức (Zhu De) cũng đến nơi này và sau đó, lập nên
Đệ Tứ Quân Đoàn của Hồng Quân Trung Hoa (the Red Army) gồm các nông dân và
công nhân.
Trong khoảng thời gian từ 1931 tới
1934, Mao giúp công vào việc thành lập khu vực Xô Viết của Trung Hoa và được
bầu làm chủ tịch. Vào giai đoạn này, Mao kết hôn với Hà Tú Trân (He Zizhen) vì
người vợ trước là Dương Khai Tuệ đã bị quân Quốc Dân Đảng bắt và giết vào năm
1930. Tại vùng Xô Viết bị bao vây này, Mao đã biến nơi đây thành nơi ẩn náu
của các người cộng sản đã bỏ chạy khỏi thành phố, cùng với Chu Đức đào tạo một
đạo quân tuy nhỏ nhưng tinh nhuệ, theo đuổi đường lối
"du kích chiến" (youji zhan). Nhưng rồi do áp lực của nhóm đảng viên
gọi là "28 người Bôn Xê Vích"
(28 Bolsheviks) chủ trương theo đường lối cộng sản của Liên Xô, trong đó có cả
Chu Ân Lai (Zhou Enlai), Mao Trạch Đông đã mất địa vị chỉ huy quan trọng.
|
Vạn Lý Trường Chinh của Mao
|
Sau cuộc Bắc Phạt (the Northern Expedition), Tướng Tưởng Giới Thạch quyết định
trừ bỏ các người cộng sản. Vào tháng 10 năm 1934, quân đội cộng sản bị bao vây
và bị tấn công, phải bỏ chạy trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh (the Long March),
rút lui từ tỉnh Giang Tây (Jiangxi) ở phía đông nam, về tỉnh Thiểm Tây
(Shaanxi) thuộc miền tây bắc của Trung Hoa. Trong cuộc hành trình dài 9,600
cây số này, Mao đã tỏ ra là nhà lãnh đạo rồi sau đó lại được Chu Ân Lai chạy
theo, phụ giúp. Trong kỳ đại hội đảng Tuân Nghĩa (the Zunyi Conference) họp
vào tháng 1 năm 1935 tại tỉnh Quý Châu, Mao Trạch Đông được bầu vào Ủy
Ban Thường Trực của Bộ Chính Trị của đảng Cộng Sản Trung Hoa (the Standing
Committee of the Politburo of the Communist Party of China).
Từ căn cứ Diên An (Yan'an), Mao Trạch
Đông đã chỉ huy cuộc kháng chiến của lực lượng cộng sản chống lại quân đội
Nhật Bản trong cuộc chiến tranh Hoa Nhật lần thứ hai (1937-45) và trong thời
gian này, đã củng cố địa vị của mình vào năm 1942 bằng cách phát động chiến
dịch Chỉnh Phong (Cheng Feng) để loại ra các đối thủ của mình, trong số này có
các đảng viên cộng sản như Vương Minh (Wang Ming), Vương Thế Duy (Wang Shiwei)
và Đinh Ling (Ding Ling). Cũng tại Diên An, Mao đã ly dị Hà Tú Trân (He
Zizhen) và kết hôn với một nữ diễn viên sân khấu tên là Lam Tần (Lan Ping),
người mà sau này được biết bằng tên Giang Thanh (Jiang Qing).
Trong cuộc chiến tranh Hoa Nhật, các
chiến lược của Mao là chống lại phe Quốc Dân Đảng của Tướng Tưởng Giới Thạch
và chống Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã coi Tướng Tưởng là một đồng minh quan trọng, có thể
đánh bại quân đội Nhật Bản, sớm làm kết thúc chiến tranh trong khi Tưởng Giới
Thạch cũng tìm cách củng cố quân đội Quốc Dân Đảng để đối đầu với lực lượng
cộng sản sau Thế Chiến Thứ Hai. Cả hai phe phái này đã bị chỉ trích là đều tìm
cách đánh phá lẫn nhau hơn là chống lại quân xâm lăng Nhật.
Về sau, nhà sử học Willy Lam đã xác nhận rằng trong cuộc chiến chống Nhật Bản:
"Đa số các tổn thất do quân đội Quốc Dân Đảng phải chịu đựng, mà không phải là
các sư đoàn cộng sản. Mao và các nhà lãnh đạo du kích khác đã quyết định vào
thời gian đó rằng cần phải bảo toàn sức mạnh để dùng cho một cuộc "đấu tranh
to lớn hơn" diễn ra tại khắp nơi trên miền đất Trung Hoa một khi quân đội của
đế quốc Nhật Bản đã bị tiêu diệt bởi các lực lượng đồng minh do Hoa Kỳ chỉ
huy".
Sau khi Thế Chiến Thứ Hai kết thúc,
Hoa Kỳ vẫn tiếp tục ủng hộ Tướng Tưởng Giới Thạch để ngăn chặn làn sóng cộng
sản và từ nay bắt đầu cuộc nội chiến. Đồng thời, Liên Xô cũng tiếp tế một cách
kín đáo cho Hồng Quân Trung Quốc, với tư cách là một nước lân bang mà không
phải là một nước đồng minh, bởi vì Liên Xô muốn tránh đi các tranh chấp có thể
xẩy ra với Hoa Kỳ.
Vào ngày 21 tháng 1 năm 1949, lực
lượng quân sự Quốc Dân Đảng bị tổn thất nặng nề trước Hồng Quân của Mao Trạch
Đông rồi vào sáng ngày 10 tháng 12 năm 1949, Hồng Quân đã bao vây Thành Đô
(Chengdu) là căn cứ cuối cùng của lực lượng Quốc Dân Đảng. Tướng Tưởng Giới
Thạch và toàn thể quân dân đi theo phải di tản qua hòn đảo Đài Loan vào cùng
ngày này.
4/ Lãnh đạo nước Trung Hoa.
Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa được
thành lập vào ngày 01 tháng 10 năm 1949 sau 2 thập niên nội chiến và chiến
tranh quốc tế. Mao Trạch Đông đã là Chủ Tịch (Chairman) của nước cộng hòa này
từ năm 1954 tới năm 1959 và thường được gọi là Mao Chủ Tịch (Chairman Mao) hay
Vị Lãnh Tụ Vĩ Đại Mao Chủ Tịch (the Great Leader Chairman Mao). Kể từ ngày
thành lập kể trên, đảng Cộng Sản Trung Hoa đã kiểm soát toàn thể các phương
tiện truyền thông và dùng các phương tiện này vào việc quảng cáo hình ảnh của
Mao Chủ Tịch và của Đảng trong khi đó cũng bôi nhọ Tướng Tưởng Giới Thạch và
các quốc gia khác như Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Đảng Cộng Sản cũng hô hào người dân
Trung Hoa phải dốc toàn lực để xây dựng và củng cố đất nước. Mỗi người dân đều
được cấp phát một cuốn sách nhỏ gọi là "Mao Tuyển" (the Quotations from
Chairman Mao Tse-Tung) để học thuộc lòng các lời dạy của Mao Chủ Tịch và để
thảo luận tại trường học cũng như tại nơi làm việc, bởi vì đảng Cộng Sản Trung
Hoa cho rằng cuốn sách nhỏ này chứa đựng sự thật không thể sai lầm.
Từ năm 1949, Mao Chủ Tịch cư ngụ trong
khu vực Trung Nam Hải (Zhongnanhai), bên cạnh Cấm Thành (the Forbidden City)
trong thành phố Bắc Kinh. Mao thường làm việc trên giường hay bên cạnh một hồ
bơi xây bên trong nhà. Sau khi đã nắm quyền lực, Mao đã phát động chiến dịch
tập thể hóa ruộng đất (collectivization) cho đến năm 1958, đất đai của các địa
chủ và nông dân giàu có đều bị tịch thu và đảng Cộng Sản Trung Hoa bắt đầu
kiểm soát giá cả, ấn định cách viết chữ "giản thể" (character simplification)
để làm giảm đi nạn mù chữ. Các dự án kỹ nghệ hóa cũng được bắt đầu.
Ngoài các chương trình xóa bỏ tư hữu,
thay đổi các kiến trúc hạ tầng, còn có Chiến Dịch Trăm Hoa Đua Nở (the Hundred
Flowers Campaign) qua đó Mao đã cho người dân biết rằng họ có thể đóng góp các
ý kiến khác nhau về cách quản trị đất nước Trung Hoa. Vì được tự do bày tỏ
quan điểm, các nhà trí thức hay các đảng viên cấp tiến bắt đầu phản đối đảng
Cộng Sản và đặt nhiều vấn đề với giai cấp lãnh đạo.
Vào lúc đầu, công việc đóng góp ý kiến còn được dung thứ và ngay cả khuyến
khích nhưng vài tháng sau, chính quyền cộng sản liền trở mặt và đã hành hạ
500,000 người, đây là các người dám chỉ trích hay dự tính phê bình Đảng. Nhiều
nhà sử học cho rằng chiến dịch Chống Cánh Hữu (the Anti-Rightist Movement) này
là một quỷ kế để nhổ tận gốc các tư tưởng "nguy hiểm". Các học giả khác như
Bác Sĩ Lý Chí Tuy (Dr. Li Zhisui) lại tin rằng vào lúc đầu, Mao muốn dùng cách
này để làm lộ ra các đảng viên chống đối mình rồi khi phong trào chỉ trích lan
rộng thêm, thì đây là phương pháp để nhận diện và rồi hành hạ các kẻ dám chống
đối chính quyền.
5/ Phong Trào "Bước Đại Nhẩy Vọt".
Vào tháng 1 năm 1958, Mao Trạch Đông
phát động một kế hoạch 5 năm, được gọi là phong trào Bước Đại Nhẩy Vọt (the
Great Leap Foward) . Đây là một kiểu mẫu phát triển kinh tế khác biệt với kiểu
mẫu của Liên Xô chú trọng vào kỹ nghệ nặng mà một số đồng chí trong Đảng đã
ủng hộ. Theo chương trình kinh tế này, các tập thể nông nghiệp nhỏ sẽ được tập
hợp thành các công xã nhân dân (people's communes) to lớn hơn nhiều, tại nơi
đây các nông dân được lệnh phải làm việc trong các dự án hạ tầng cơ sở lớn lao
và trong các nơi sản xuất sắt thép nhỏ. Tất cả sản xuất thực phẩm tư nhân đều
bị cấm đoán, gia súc và dụng cụ nông nghiệp được tập trung và sở hữu tập thể.
Trong phong trào Bước Đại Nhẩy Vọt
này, Mao và một số lãnh tụ đảng đã ra nhiều mệnh lệnh bổ túc về các kỹ thuật
nông nghiệp mới, cho các công xã mới, nhưng các kỹ thuật kể trên chưa từng
được thí nghiệm và không đủ tính khoa học, thêm vào, cách phân bố lao động cho
sản xuất thép và các dự án hạ tầng cơ sở, cùng với hệ thống công xã mới mẻ, đã
làm cho sản lượng thực phẩm giảm đi 15% vào năm 1959 và giảm 10% vào năm
1960.
Để lấy lòng các cấp trên và để tránh bị thanh trừng vì không hoàn thành chỉ
tiêu, các cán bộ cấp dưới đã ngụy tạo các thành quả tốt đẹp, thổi phồng sản
lượng lúa gạo. Kết quả của cách báo cáo sai, sự ưu tiên dành nông phẩm cho
xuất cảng hay khu vực thành thị, cộng với các vụ hạn hán tại một số địa
phương, các trận ngập lụt tại các nơi khác, đã khiến cho nông dân của nhiều
tỉnh đã không có đủ ăn, hàng chục triệu (tens of millions) người dân đã bị
chết đói trong các năm từ 1959 tới năm 1962 và đây là nạn chết đói lớn nhất
của nhân loại.
Trong khi đó, dù cho định số thép sản xuất có gia tăng, nhưng loại sắt thép
này đã trở thành vô dụng vì được nấu ra từ mọi loại sắt vụn tại các lò đúc
trong sân sau nhà mà không có kỹ thuật chế tạo đúng cách. Theo anh Trương
Nhung Mỹ (Zhang Rongmei), một giáo viên thuộc miền quê Thượng Hải cho biết
trong thời kỳ này: "chúng tôi gom tất cả các nồi niêu soong chảo hiện có trong
nhà, và các người láng giềng cũng làm như vậy, chúng tôi bỏ tất cả vào ngọn
lửa lớn để làm chảy ra thành kim loại".
Phong trào Bước Đại Nhẩy Vọt đã là một
"thảm họa" cho nước Trung Hoa, ngay cả với các đập nước, các kênh đào hay các
dự án hạ tầng cơ sở mà hàng triệu nông dân và tù nhân đã phải làm việc cực khổ
và một số đã phải bỏ mạng, tất cả đã trở thành vô dụng vì không được xây dựng
theo đúng kỹ thuật do các kỹ sư có khả năng, bởi vì những người này đã bị Mao
loại bỏ vì thiếu niềm tin ý thức hệ.
Vào thời kỳ đó, một số nhà báo phương tây chỉ được tới thăm các công xã kiểu
mẫu và đã bị lường gạt về thành tích của các vụ thu hoạch. Cho tới năm 1984,
nhà nhân chủng học người Mỹ là Giáo Sư Judith Banister tin rằng số người Trung
Hoa chết đói sau năm 1959 là 30 triệu, trong khi các nguồn tin khác lại cho
các con số tử vong từ 20 tới 43 triệu.
Trong kỳ Đại Hội Đảng họp tại Lư Sơn
(Lushan) trong các tháng 7 và 8 năm 1959, nhiều lãnh tụ đảng cho biết Bước Đại
Nhẩy Vọt đã không thành công như dự trù. Mao đã đổ lỗi sự thất bại này là do
Bộ Trưởng Quốc Phòng Bành Đức Hoài (Peng Dehuai) và các người dưới quyền của
ông ta.
Về phương diện quốc tế, sau khi Stalin
qua đời vào năm 1953 và Krushchev lên thay thế, nước Trung Hoa bị cô lập nhiều
hơn vì sự rạn nứt Trung Xô (the Sino-Soviet split) với kết quả là Krushchev đã
ra lệnh rút tất cả các chuyên viên kỹ thuật và các trợ giúp của Liên Xô ra
khỏi Trung Quốc.
Sự rạn nứt này do các tranh chấp biên
giới, do các tranh cãi về ai có quyền kiểm soát và đặt hướng đi cho tổ chức
Cộng Sản Quốc Tế và các tranh chấp liên quan tới chính sách ngoại giao.
Từ lâu trước khi Mao Trạch Đông kiểm
soát được đảng Cộng Sản Trung Hoa, Stalin đã tự coi mình là người kế thừa xứng
đáng của Lenin với các tư tưởng Mác Xít chính thống và đúng đắn, và trong khi
Stalin còn sống, Mao Trạch Đông không hề dám thách đố về chủ nghĩa với Stalin.
Nhưng sau khi Stalin đã qua đời, Mao tin tưởng rằng quyền lãnh đạo đường lối
Cộng Sản Quốc Tế sẽ truyền tới tay Mao, một phần vì thâm niên trong hệ thống
đảng, một phần cũng do Mao tin rằng mình hiểu rõ hơn về ý thức hệ Mác
Xít.
Trong khi đó Krushchev đang đứng đầu một chính quyền có ưu thế hơn cả về chính
trị lẫn quân sự, vì vậy đã có sự căng thẳng giữa hai nhân vật cấp cao này và
sự liên lạc giữa Liên Xô và Trung Cộng bị suy giảm và tới lúc này, Trung Quốc
phải đối đầu với các đe dọa mới từ Liên Xô tại phía bắc và phía tây. Trung
Quốc còn bị bao vây một phần do các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ đặt tại Nam
Triều Tiên, Nhật Bản, Okinawa và Đài Loan.
Sau các thất bại của chương trình Bước
Đại Nhẩy Vọt, Bộ Chính Trị của Trung Quốc họp vào tháng 1 năm 1961 và đã quyết
định đặt Mao Trạch Đông vào vị trí phía sau, và các nhà lãnh đạo ôn hòa hơn
như Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shaoqi) và Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping), sẽ cứu vãn
nền kinh tế bằng cách giải tán các công xã nhân dân (people's communes), cho
phép nông dân có quyền kiểm soát một mảnh đất nhỏ, và nhà nước Trung Hoa đã
nhập cảng ngũ cốc từ nước Canada và châu Úc để giảm bớt các ảnh hưởng
xấu của nạn đói.
6/ Cuộc Cách Mạng Văn Hóa.
Sau các thất bại của phong trào Bước
Đại Nhẩy Vọt khiến cho 30 triệu người dân chết đói và đây là nạn đói lớn lao
nhất trong lịch sử của nhân loại, các nhân viên cao cấp của đảng Cộng Sản
Trung Hoa, kể cả Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, đã quyết định rằng Mao không
được nắm thực quyền mà chỉ giữ vai trò tượng trưng và nghi lễ. Vào năm 1959,
Lưu Thiếu Kỳ trở nên Chủ Tịch Nước còn Mao vẫn là Chủ Tịch (Chairman). Lưu
Thiếu Kỳ và một số cộng sự viên bắt đầu cứu xét các hoàn cảnh của đất nước
Trung Hoa một cách thực tế hơn và như vậy, đã loại bớt các lý tưởng mà Mao đã
từng mong đợi.
Đứng trước viễn ảnh bị mất đi địa vị
chính trị, Mao Trạch Đông đã phản ứng lại các công tác của Lưu Thiếu Kỳ và
Đặng Tiểu Bình bằng cách phát động cuộc Cách Mạng Văn Hóa (the Cultural
Revolution) vào năm 1966. Bằng cách này, Mao đã không dùng tới hệ thống đẳng
cấp của đảng Cộng Sản, mà điều khiển trực tiếp các thanh niên trẻ dưới 20
tuổi, gọi là Hồng Vệ Binh (the Red Guards), để họ lập nên các tòa án xét xử
riêng.
Cuộc cách mạng này đã đưa tới hậu quả là Hồng Vệ Binh đã tàn phá phần lớn các
di sản văn hóa của Trung Hoa, đã hành hạ và nhốt tù một số rất lớn các cựu
đảng viên và các nhà trí thức, đồng thời tạo nên các tình trạng hỗn loạn về
kinh tế và xã hội tại tất cả các thành phố và miền quê. Hàng triệu người đã bỏ
mạng trong giai đoạn này.
Cũng vào giai đoạn Cách Mạng Văn Hóa,
Mao đã chọn Lâm Bưu (Lin Biao) là người kế vị của mình. Người ta không biết rõ
có phải Lâm Bưu dự trù một cuộc đảo chánh hay một kế hoạch ám sát Mao hay
không, nhưng kết quả là Lâm Bưu bị chết trong một tai nạn máy bay rớt trên
miền xa mạc của Mông Cổ. Tại Trung Hoa, người ta đã công bố rằng Lâm Bưu dự
tính hạ bệ Mao, vì vậy sau khi chết, ông ta đã bị khai trừ khỏi đảng Cộng Sản
Trung Hoa. Vào lúc này, Mao Trạch Đông không còn tin tưởng các nhân vật hàng
đầu của đảng Cộng Sản.
Cuộc Cách Mạng Văn Hóa được Mao công
bố chấm dứt vào năm 1969, nhưng các nhà sử học của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa
lại cho rằng cuộc cách mạng này kết thúc vào năm 1976 khi Mao qua đời.
Trong các năm cuối của cuộc đời, Mao
gặp cảnh sức khỏe suy kém một phần do bệnh Parkinson, một phần do bệnh dây
thần kinh (motor neurone disease) (theo như lời của Bác Sĩ riêng Lý Chí Tuy),
cộng với bệnh tim và bệnh phổi do hút nhiều thuốc lá. Vào thời gian này, Mao
đành thụ động, khiến cho các phe nhóm trong đảng Cộng Sản Trung Quốc tranh
giành quyền lực.
7/ Mao qua đời.
Trong nhiều tháng trường trước khi
chết, sức khỏe của Mao đã suy giảm và ông ta không thể xuất hiện trước công
chúng. Mao qua đời, thọ 82 tuổi, vào ngày 9 tháng 9 năm 1976, lúc 10 phút quá
nửa đêm, tại Bắc Kinh. Thi hài của Mao được quàn tại Đại Sảnh Đường Nhân Dân
(the Great Hall of the People) và một buổi lễ Tưởng Niệm được tổ chức tại
Quảng Trường Thiên An Môn vào ngày 18/ 9/1976.
Về sau, xác của Mao được đặt trong "Lăng Mao Trạch Đông" (the Mausoleum of Mao
Zedong) mặc dù trước kia, ông ta đã từng ước mong được hỏa táng theo như đề
nghị vào tháng 11 năm 1956, là các nhà lãnh đạo trung ương sẽ được hỏa táng
sau khi chết (the Proposal that all Central Leaders be Cremated after death).
Sau khi Mao qua đời và theo như nhiều
người tiên đoán, đã có một cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe nhóm để
kiểm soát nước Trung Hoa. Một bên, được gọi là các kẻ khuynh tả (the leftists)
do nhóm Tứ Nhân Bang (the Gang of Four = Bè Lũ Bốn Tên) đứng đầu là Giang
Thanh, những người này muốn tiếp tục chính sách quần chúng cách mạng đấu
tranh. Phía bên kia là các kẻ khuynh hữu (the rightists) gồm hai nhóm: nhóm
thứ nhất do Hoa Quốc Phong (Hua Guofeng) chủ trương trở về phương pháp hoạch
định trung ương (central planning) cùng với kiểu mẫu Liên Xô, nhóm thứ hai là
các người cải tổ (reformers) do Đặng Tiểu Bình dẫn đầu, muốn canh tân nền kinh
tế của Trung Hoa căn cứ vào các chính sách hướng về thị trường
(market-oriented policies) và không đề cao các "ý thức hệ Mao-ít" khi quyết
định các chính sách kinh tế và chính trị.
Cuối cùng, nhóm ôn hòa và Đặng Tiểu
Bình đã thắng nhóm Tứ Nhân Bang và nhóm Hoa Quốc Phong trong một cuộc tranh
quyền không đổ máu.
8/ Tôn thờ Lãnh Tụ Mao.
Nhiều người Trung Hoa cho rằng Mao
Trạch Đông là một đại lãnh tụ trong phần trước nhưng hư hỏng vào phần sau của
cuộc đời. Khi còn sống, Mao đã khiến cho mọi người dân phải tôn thờ mình. Mao
đã tạo nên các hình ảnh chứng tỏ rằng mình là kẻ thù của các địa chủ, của các
thương gia, kẻ thù của các đế quốc Hoa Kỳ và phương Tây, đồng thời là bạn của
các nông dân và công nhân nghèo khó. Khi sự tôn thờ lên tới điểm cao nhất, Mao
được người dân ca tụng là Bậc Thầy vĩ đại, Vị Lãnh Tụ vĩ đại, Vị Chỉ Huy Tối
Cao vĩ đại và Nhà Dìu Dắt vĩ đại (the Four Greats: Great Teacher, Great
Leader, Great Supreme Commander, Great Helmsman).
Có người cho rằng sự tôn thờ cá nhân
đi ngược với các ý tưởng căn bản của chủ nghĩa Mác Xít. Tuy thế, Stalin đã bắt
đầu các công việc ca tụng chính mình và Lenin, mặc dù Lenin đã nói không muốn
hậu thế dựng nên các đài kỷ niệm sau khi ông ta qua đời.
Nhân cuộc Đại Hội Đảng năm 1958 họp
tại Thành Đô (Chengdu), Mao đã nói: "Có hai loại tôn thờ cá nhân. Một loại tôn
thờ tốt, đó là đề cao các nhân vật như Marx, Engels, Lenin và Stalin, bởi vì
họ đã cầm được chân lý trong tay (they hold the truth in their hands). Loại
kia là tôn thờ xấu nghĩa là tôn thờ không phân tích và mù quáng".
Vào năm 1962, Mao đề nghị Phong Trào
Giáo Dục Xã Hội Chủ Nghĩa (the Socialist Education Movement) để bảo vệ giới
nông dân khỏi bị chế độ phong kiến cám dỗ và tránh khỏi mầm mống của chế độ tư
bản mà ông ta đã nhìn thấy hiện đang nhú lên tại các miền quê.
9/ Đời tư của Mao Trạch Đông.
Các đảng viên Cộng Sản cao cấp là
những kẻ được hưởng rất nhiều đặc quyền, đặc lợi một cách rất kín đáo, nên đời
tư của họ không được người dân biết đến. Họ thường là những con người tàn bạo,
nhiều thủ đoạn, phạm nhiều tội lỗi, tham nhũng, dâm đãng và hư hỏng nhưng khéo
léo che dấu bên ngoài và thường được mô tả sai sự thực. Mao Trạch Đông cũng
không ra ngoài thông lệ này và các bí ẩn về đời sống của Mao đã được mô tả một
phần do vị y sĩ riêng là Bác Sĩ Lý Chí Tuy.
Mao Trạch Đông đã bị mất anh em, vợ và
các con vì chiến tranh và cách mạng, nên trở thành con người không xúc động
trước các đau khổ của người khác. Hàng triệu người dân Trung Hoa chết đói sau
phong trào Bước Đại Nhẩy Vọt, các thảm cảnh xẩy ra cho người yêu cũ, cho các
đồng chí cũ như các trường hợp bi thương của Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài, Hạ
Long... đã không hề làm Mao bận tâm, và các người phục vụ cho Mao đều bị quản
chế, không cho tiếp xúc với bên ngoài để có thể tiết lộ đời tư của nhà độc tài
dâm đãng này.
Các cựu đồng chí hay nhân viên dưới quyền đã từng cộng tác hay phục vụ Mao khi
không tuân hành mệnh lệnh, thường bị loại bỏ, nhốt tù, nhiều khi bị tiêu diệt
do các chỉ thị gián tiếp của Mao và trong hoàn cảnh Mao cần đến tài năng của
họ, vài người nếu còn sống sót có thể được gọi trở lại để phục vụ một cách
lạnh lùng như đối với những người chưa hề quen biết. Mao đã từng đọc nhiều
sách viết về các hoàng đế Trung Hoa khi trước, nên biết rõ các cách tàn bạo
của cổ nhân.
Đối với quần chúng bên ngoài, Mao cho
thấy mình sống rất giản dị nhưng thực ra, đã hưởng thụ rất nhiều xa hoa. Mao
sống trong một tòa nhà có hồ bơi bên trong, trong khu vực Trung Nam Hải và
không tiếp xúc với dân chúng đói khổ bên ngoài, những hiểu biết về dân tình là
do các nhân viên tin cậy của Mao cung cấp sau khi họ đi điều tra sự việc. Sau
khi nắm chức vụ tối cao, Mao chỉ ra ngoài bằng xe lửa riêng, chế tạo đặc biệt
với các tiện nghi xa hoa tại Đông Đức. Trong thời kỳ nạn đói khủng khiếp, các
cán bộ địa phương đã trồng gấp các ruộng lúa tươi tốt dọc theo hai bên đường
xe lửa mà Mao sắp đi qua để xác nhận các thành quả rực rỡ do chính sách nông
nghiệp khôn ngoan của vị Đại Lãnh Tụ. Cũng thế, nhiều tỉnh ủy địa phương cạnh
tranh nhau trong việc xây dựng các tòa nhà riêng đầy đủ tiện nghi dành cho Mao
Chủ Tịch, nhiều tòa nhà này chưa từng được Mao đến thăm.
Mao chỉ ngủ trên một chiếc giường gỗ
to lớn, chế tạo đặc biệt, được chở đi bằng xe lửa khi Mao đi du hành, kê vào
trong tòa nhà khi Mao nghỉ qua đêm và chuyên chở bằng máy bay tới Moscow khi
Mao thăm viếng Liên Xô. Đồ ăn đăc biệt trồng trọt trong một nông trại gần Bắc
Kinh cũng được chở tới nơi Mao đang đi công tác và các món ăn đều được nếm thử
trước. Mao ưa thích ăn bánh bao (bao zi) và một loại cơm hấp, với nước tương
(soy sauce).
Nhiều người tin rằng Mao sống một cuộc
đời không có bạn bè, vì vậy đảng và các cơ quan chính trị thường hay cạnh
tranh với nhau trong việc tuyển lựa các thiếu nữ trẻ đẹp, có nguồn gốc nông
dân vô sản, có cơ thể khỏe mạnh để mua vui cho vị Đại Lãnh Tụ. Hàng tuần vào
chiều ngày Thứ Tư, một buổi dạ vũ được tổ chức để Mao thoải mái và trong khung
cảnh vui tươi này, Mao sẽ chọn một thiếu nữ để ngủ qua đêm bởi vì Mao là một
con người rất dâm đãng. Ngoài ra còn có các cuộc tranh tài bóng bàn tổ chức
bên trong tòa lâu đài để Mao giải trí.
Sức khỏe của Mao là một bí mật tuyệt
đối nhưng cũng là điều mà mọi người muốn biết khi vị đại lãnh tụ này còn sống.
Mao mắc bệnh lo lắng, trầm cảm, mất ngủ, thường xuyên phải dùng thuốc an thần
với liều lượng cao và không hề quan tâm tới thời gian trong ngày, bởi thế các
nhân viên thân cận của Mao phải túc trực vì có thể bị gọi trình diện bất cứ
lúc nào khi cần, không cần biết ngày hay đêm. Mao hiếm khi tiếp đón các chính
khách nước ngoài.
Mao không bao giờ tắm, thường lau mình
bằng khăn tẩm nước nóng vì vậy, theo cuốn sách "Đời Tư của Mao Chủ Tịch" (the
Private Life of Chairman Mao) của Bác Sĩ Lý Chí Tuy, Mao đã truyền bệnh hoa
liễu cho hàng ngàn thiếu nữ, khiến cho các bác sĩ luôn luôn bận việc chữa trị
cho họ. Trong cả đời, Mao không bao giờ chải răng mà ưa thích xúc miệng bằng
nước trà xanh, khiến cho răng lợi bị nhiễm trùng. Sức khỏe suy yếu của Mao đã
được dấu kín tối đa, lại được quảng cáo bằng các hình ảnh Mao bơi lội trên
dòng sông Dương Tử.
10/ Di Sản của Mao Trạch Đông.
Nhiều người đã tranh luận về di sản
của Mao Trạch Đông kể từ khi Mao qua đời vào năm 1976. Các người Hoa hiện đang
sinh sống trên lục địa tiếp tục coi Mao là vị kiến trúc sư chính đã xây dựng
lại nước Trung Hoa mới. Họ tin rằng Mao là một lãnh tu vĩ đại lúc ban đầu
nhưng bị hư hỏng (corrupt) và đã phạm phải các lỗi lầm to lớn khi đã nắm quyền
lực và nhất là về phần cuối đời. Theo ông Đặng Tiểu Bình, Mao đúng 70% và sai
30%, và phần đóng góp được coi là chính, phần lỗi lầm bị coi là phụ. Một số
đảng viên cộng sản lại coi Mao chịu trách nhiệm về việc kéo nước Trung Hoa ra
xa nước đồng minh cộng sản là Liên Xô trong khi các người chủ trương tách khỏi
Liên Xô bị coi là theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Có người chỉ trích Mao đã không khuyến
khích việc kiểm soát sinh đẻ vì trong khoảng thời gian từ cuộc Chiến Tranh Nha
Phiến tới cuộc Nội Chiến, dân số Trung Hoa là 400 triệu đã tăng lên 57% thành
700 triệu, và về sau các nhà lãnh đạo kế tiếp đã phải đưa ra chính sách "mỗi
gia đình một con". Nói chung, mọi người đều công nhận rằng phong trào "Bước
Đại Nhẩy Vọt" và cuộc "Cách Mạng Văn Hóa" đã là các "thảm họa" chính do các
chính sách của Mao.
Những người ủng hộ Mao cho rằng nhờ có
Mao, nước Trung Hoa chấm dứt được "100 Năm Tủi Nhục" (a Century of
Humiliation) khỏi các đế quốc tây phương và trở nên một cường quốc, và nền
kinh tế và xã hội của nước Trung Hoa được phát triển. Họ cho rằng trước năm
1949, tỉ lệ mù chữ ở lục địa Trung Hoa là 80% và tuổi thọ ở mức 35 tuổi, nhưng
sau khi Mao qua đời, tỉ lệ mù chữ còn 7% và người dân sống lâu trên 70 tuổi.
Mao cũng được coi là có công trong việc cải tiến các quyền lợi của phụ
nữ, bằng cách tiêu hủy nạn mãi dâm và nạn này đã quay trở lại khi ông
Đặng Tiểu Binh và các nhà lãnh đạo Trung Quốc sau Mao, đã cho phép nền kinh tế
được hưởng tự do. Thực ra, nạn mù chữ và tuổi thọ đều được cải tiến tại các
quốc gia gần với Trung Hoa như Đài Loan, Ấn Độ, nhưng Trung Hoa tiến bộ hơn về
nền y tế nông thôn và công việc phân phối thực phẩm công cộng.
Mao còn được coi là nhà chiến thuật và
chính trị xuất sắc trong cuộc Nội Chiến và chiến tranh Triều Tiên, với các bài
viết về quân sự đã ảnh hưởng lớn tới những người muốn tạo ra các cuộc nổi loạn
cũng như tìm hiểu cách dẹp nổi loạn, và trái lại, ý thức hệ của Mao thì không
thể áp dụng được vì thường gây ra kinh hoàng. Loại ý thức hệ này đã ảnh hưởng
tới vài quốc gia cộng sản kể cả các phong trào nổi dậy của các quốc gia thuộc
thế giới thứ ba, như miền Bắc Việt Nam, Căm Bốt (Khmer Đỏ), Peru (Con Đường
Sáng = Shinning Path), Nepal với phong trào cách mạng, với kết quả là cảnh tàn
sát hàng triệu sinh mạng như tại Căm Bốt, cảnh giết hàng trăm ngàn nạn nhân vô
tội trong cuộc đấu tố địa chủ tại miền Bắc Việt Nam, và đặc biệt trong trận
chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), do sự chấp thuận của Mao, Bắc Hàn đã xâm
lăng Nam Hàn gây ra cảnh đổ máu, với một triệu binh lính Trung Cộng chết vì
chiến đấu cho Bắc Hàn, trong số này có cả người con trai của Mao là Mao Ngạn
Anh (Mao Anying).
Từ khi Mao qua đời, nước Trung Hoa đã
đi lệch khỏi "chủ nghĩa Mao Ít" (Maoism) và nhiều người cho rằng các cải tiến
do ông Đặng Tiểu Bình là cách phản bội những di sản (legacy) của Mao Trạch
Đông.
Một cuốn sách đã chỉ trích Mao Trạch
Đông nặng nề, đó là cuốn "Mao: Câu Chuyện Chưa Biết" (Mao: the Unknown Story)
do Jung Chang và Jon Halliday. Các tác giả này tin rằng Mao đã "chế tạo" ra
các huyền thoại về quá khứ và tuổi trẻ của mình, làm tốt đẹp hình ảnh mình
biến thành một "anh hùng của nhân dân" (people's hero) trong khi thực sự, Mao
là một con người tàn ác, và các biến cố của cuộc Vạn Lý Trường Chinh đều sai
sự thực.
Lãnh tụ độc tài giết nhiều người nhất (số triệu)
Xem ra thì cả Hitler và Stalin cộng lại cũng chỉ khoảng một nửa của Mao Trạch Đông
Qua thế kỷ 21, người dân Trung Hoa
không còn phải học hỏi các lý thuyết cộng sản của Mao nữa. Trong lần kỷ niệm
ngày Giỗ thứ 25 của Mao, chính quyền Trung Cộng chỉ nhắc nhở sơ sài đến "Mao
Chủ Tịch", trái hẳn với các cuộc mít tinh và hội thảo được tổ chức rầm rộ vào
năm 1993 nhân 100 ngày Sinh của Mao.
Không giống như Nikita Khrushchev đã
từng lên án "chế độ bạo tàn" của Joseph Stalin, chính quyền Trung Cộng không
chính thức phủ nhận các chiến thuật của Mao.
Vào giữa thập niên 1990, hình chân
dung của Mao Trạch Đông đã được in trên loại tiền "nhân dân tệ" (renminbi)
nhưng vào ngày 13 tháng 3 năm 2006, tờ Nhân Dân Nhật Báo (the People's Daily)
tường thuật rằng đã có đề nghị thay thế chân dung của Mao trên loại tiền nhân
dân tệ kể trên, bằng các chân dung của hai ông Tôn Dật Tiên và Đặng Tiểu
Bình.
Phạm Văn Tuấn
Tài liệu tham khảo: Wikipedia.org.; Britannica Encyclopedia.
Post a Comment