Trong công việc tìm hiểu bản chất con người, bản chất của thiên nhiên và
Thượng Đế, các nhà thơ, nhà văn, nhà triết học… đã biểu lộ niềm tin của mình
qua các tác phẩm. Hình ảnh của bản ngã (the self) đã thay đổi trong văn
chương, chẳng hạn từ thời Shakespeare qua các giai đoạn lãng mạn và thời đại
Victoria, tới chủ nghĩa cá nhân hiện tại. Cho nên muốn hiểu rõ các tác phẩm
văn học, cần phải hiểu thêm các tư tưởng triết học, các khuynh hướng trí thức
quan trọng qua nhiều thế kỷ. Đã có sự liên hệ giữa cách suy tưởng lý thuyết
với các hình ảnh diễn tả trong văn chương.
Nhờ lý thuyết về Kinh Tế Học của Adam Smith (1723-1790), Charles Dickens đã
đạt được cách nhìn sâu sắc nhắm vào các điều phức tạp và các sự bất công của
xã hội tư bản. Charles Dickens đã mở lối cho các nhà văn danh tiếng sau này là
Henry James và Henry Adams. Các tác phẩm về phân tâm học của Sigmund Freud đã
dọn đường cho James Joyce và Virginia Woolf.
Sau khi Adam Smith bàn luận về thị trường, Karl Marx đã phân tích bản chất của
chế độ tư bản của thời kỳ cuối thế kỷ 19. Lý thuyết Mác Xít (Marxism) đã đưa
tới Cuộc Cách Mạng Cộng Sản Nga xẩy ra vào năm 1917 và sự bành trướng của Đế
Quốc Xô Viết sau trận Thế Chiến Thứ Hai.
1776 là năm các thuộc địa Bắc Mỹ tuyên bố độc lập và
"Bản Tuyên Ngôn Độc Lập" của Hoa Kỳ đã tạo ra các nền tảng chính trị
của Thế Giới. Cũng vào năm 1776 xuất hiện tác phẩm
"Tài Sản của các Quốc Gia" (the Wealth of Nations) và nền triết học về
“tài sản” của Adam Smith đã dẫn đường cho thế giới kinh tế ngày nay. Adam
Smith đã nhìn thấy "một bàn tay vô hình" (an invisible hand) chi phối
tài sản và các cách tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, rồi tác giả cắt nghĩa sức mạnh
và cách hoạt động của thị trường.
"Tài Sản của các Quốc Gia" là tác phẩm đầu tiên viết về ngành chính trị
kinh tế học (political economy), đã thảo luận sự liên hệ giữa tự do và trật
tự, phân tích các phương thức kinh tế (economic processes), tấn công hệ thống
trọng thương (the mercantile system) của nước Anh bởi vì hệ thống này đã giới
hạn nền tự do mậu dịch (free trade).
Tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia" đã trình bày các vấn đề căn bản của
trật tự xã hội và sự tiến bộ của con người trong một xã hội mà cá nhân đi theo
con đường tư lợi (self-interest), đã sản xuất ra các mặt hàng mà các người
khác cần mua. Người bán và người mua gặp nhau tại thị trường rồi nhờ thị
trường mà có sự hòa hợp xã hội.
1/ Cuộc đời của Adam Smith.
Adam Smith là một nhân vật trầm lặng, sống một cuộc đời ẩn dật, một con người
ít viết thư từ và đã ra lệnh đốt bỏ một số bản thảo khi gần qua đời vì vậy
người đời sau hiểu rõ các tư tưởng của Adam Smith hơn là cuộc đời của nhà Kinh
Tế Học này.
Không có tài liệu nào ghi rõ ngày sinh của Adam Smith, chỉ biết rằng ông được
rửa tội vào ngày 5 tháng 6 năm 1723 tại Kirkcaldy, một ngôi làng đánh cá nhỏ
nhưng thịnh vượng với dân số gần 1,500 người và nơi này gần thành phố Edinbug,
xứ Tô Cách Lan. Adam Smith là con trai của ông Adam Smith trong lần lập gia
đình thứ hai với bà Magaret Douglas, con gái của một chủ đất giàu có. Ông Adam
Smith cha chỉ là một người kiểm soát thuế vụ, đã qua đời trước khi Adam sinh
ra. Người ta không biết gì về tuổi trẻ của Adam ngoài câu chuyện kể lại rằng
năm lên 4 tuổi, Adam đã bị bắt cóc do một nhóm người Gypsies sống lang thang
và sau cuộc báo động tìm kiếm, cậu bé Adam đã được nhóm người kia bỏ lại.
Năm 1737 và ở vào tuổi 14, Adam Smith theo học Đại Học Glasgow vào thời gian
này đã là một trung tâm danh tiếng của thời kỳ Khai Sáng (Enlightenment).
Giảng dạy tại đại học này có Giáo Sư Francis Hutcheson nổi danh về ngành triết
học luân lý (moral philosophy), là người đầu tiên dạy sinh viên bằng tiếng
Anh, không dùng tiếng La Tinh, và các quan điểm về Kinh Tế và Triết Học của
ông Hutcheson đã ảnh hưởng rất mạnh tới Adam Smith sau này.
Trong một bức thư viết 15 năm sau, Adam Smith đã nói tới
"Tiến Sĩ Hutcheson không bao giờ có thể quên được". Tốt nghiệp năm
1740, Adam Smith nhận được một học bổng, theo học trường Balliol thuộc Đại Học
Oxford. Trong thời gian sáu năm tại trường đại học này, các sinh viên học tập
cách tự học (self-education) để quán triệt các nền triết học cổ điển và đương
thời, họ phải đọc các tác phẩm của các tác giả Hy Lạp và La Mã, cùng với các
công trình của các giáo sư đại học thời đó.
Khi trở lại Glasgow, Adam Smith đi tìm việc làm. Nhờ các liên hệ của gia đình
bên mẹ, nhờ sự trợ giúp của nhà luật học và triết học Lord Henry Kames, Adam
Smith được nhận làm Giảng Sư tại Đại Học Edinburg với nhiệm vụ phụ trách các
buổi thuyết trình công (public lectures), đây là một hình thức giáo dục với
tinh thần "cải tiến" (improvement) được các nhà trí thức thời đó ưa
chuộng. Các bài thuyết trình công này gồm nhiều đề tài từ môn
tu từ học (rhetoric) tới ngành
chính trị kinh tế học (political economy). Trong bài điếu văn viết về
Adam Smith nhiều năm về sau, Tạp Chí "Quý Ông" (Gentleman's Magazine)
đã bình luận rằng
"cách phát âm và thể văn của ông Adam Smith đã hơn hẳn những thứ đang dùng
tại xứ Tô Cách Lan".
Trình độ hiểu biết của Adam Smith đã khiến cho ông được mời làm
Giáo Sư Lý Luận (professor of logic) tại Đại Học Glasgow vào năm 1751 ở
tuổi 27, rồi năm sau, trở thành
Giáo Sư môn Triết Học Luân Lý (moral philosophy), một môn học bao gồm
các ngành thần học tự nhiên (natural theology),
đạo đức học (ethics), luật học (jurisprudence) và chính trị kinh tế học.
Thời gian đảm nhận chức vụ Giáo Sư tại Đại Học Glasgow là
"thời kỳ sung sướng nhất và danh dự nhất của đời tôi", theo như lời
Adam Smith mô tả về sau. Mỗi ngày trong tuần lễ, ông Adam thuyết giảng từ 7:30
tới 8:30 sáng trước lớp học gồm tối đa 90 sinh viên tuổi từ 14 tới 16, còn đợt
giảng bài từ 11 giờ tới 12 giờ trưa được thực hiện 3 lần một tuần lễ. Vào buổi
chiều, ông lo công việc của trường đại học khiến cho vào năm 1758, Adam Smith
được bầu làm khoa trưởng.
Các bạn và người quen của Adam Smith trong thời gian này gồm một số nhà quý
tộc, nhiều người nắm giữ các chức vụ cao cấp của chính quyền. Các nhà trí thức
và khoa học gồm có Joseph Black, một người tiền phong về ngành Hóa Học, James
Watt là nhà phát minh ra máy hơi nước, Robert Foulis là nhà sáng lập ra Viện
Hàn Lâm Kiểu Mẫu của nước Anh (The British Academy of Design), David Hume là
nhà triết học danh tiếng. Adam Smith còn quen thân với Andrew Cochran, một nhà
buôn, nguyên viện phó của Đại Học Glasgow, người sáng lập ra
Câu Lạc Bộ Chính Trị Kinh Tế Học (the Political Economy Club), nhờ đó
Adam Smith thu thập được nhiều hiểu biết của thế giới thương mại để rồi về sau
viết ra tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia".
Tác phẩm đầu tiên của Adam Smith là cuốn
"Lý thuyết về các Tình Cảm Luân Lý" (The Theory of Moral Sentiments) xuất bản vào năm 1759, được viết ra với thể văn hào nhoáng, chải chuốt, chứa
đựng nhiều giai thoại, mang tính chất phân tích và tác phẩm này đã tạo nên thứ
ấn tượng sâu xa. Adam Smith đã mô tả qua tác phẩm các nguyên tắc về
"bản chất con người" (human nature) và đặt vấn đề về nguồn gốc của khả
năng tạo ra các phán xét luân lý, kể cả cách phán xét các hành vi của chính
mình trong việc tư lợi (self-interest) và
tự bảo tồn (self-preservation).
Adam Smith đã cho rằng trong mỗi người chúng ta có một
"con người bên trong" (an inner man) đóng vai trò một người khách quan
không thiên vị, thường chấp nhận hay lên án các hành động của chính ta và của
các người khác. Qua tác phẩm "Các Tình Cảm Luân Lý", Adam Smith đã có
nhận xét quan trọng như sau mà sau này ông lặp lại trong tác phẩm
"Tài Sản của các Quốc Gia":
Con người tự tìm kiếm mình (self-seeking men) thường bị dẫn dắt bởi "một bàn
tay vô hình" (an invisible hand)… mà không ai biết, không do chủ đích, để
làm thăng tiến các lợi ích (interest) của xã hội. Các cá nhân được xã hội
hóa để trở nên các thành viên giàng buộc bởi giai cấp và theo khuynh hướng
thị trường (market-oriented) nhờ đó hệ thống kinh tế vận chuyển.
Tác phẩm "Lý thuyết về các tình cảm luân lý" đã sớm mang lại danh tiếng
cho Adam Smith. Nhiều người từ xa đã tới nghe ông diễn thuyết kể cả hai sinh
viên từ Moscow. James Boswell cũng xác nhận lý thuyết của Adam Smith là quan
trọng và Charles Townshend đã phải chú ý đến lý thuyết này. Ông Townshend là
một nhà trí thức kiêm kinh tế học tài tử, một chính khách nhiều ảnh hưởng và
về sau là Bộ Trưởng Thương Mại (Chancellor of the Exchequer) tức là nhân vật
chịu trách nhiệm về các chính sách thuế vụ của nước Anh mà hậu quả là Cuộc
Cách Mạng Hoa Kỳ.
Ông Townshend mới lập gia đình và đang tìm kiếm một gia sư cho đứa con riêng
của bà vợ, tức là Hầu Tước Buccleuch trẻ. Do sự thán phục tác phẩm kể trên và
cũng do lời khuyên của David Hume, Charles Townshend đề nghị với Adam Smith
một số thù lao khó từ chối:
lương 500 bảng Anh một năm cộng với phí tổn du lịch và một số tiền hưu
tương đương, tất cả lớn gấp hai lợi tức của chức vụ giáo sư trong khi thứ
lợi tức này tùy thuộc vào học phí thu được của sinh viên.
Vào năm 1763 Adam Smith từ chức khỏi Đại Học Glasgow rồi cùng vị Hầu Tước
Buccleuch trẻ sang Pháp. Họ cư ngụ phần lớn thời gian tại Toulouse và trong
hoàn cảnh buồn tẻ này, Adam Smith bắt đầu viết tác phẩm
"Tài Sản của các Quốc Gia". Sau 18 tháng rảnh rỗi là hai tháng sống tại
Geneva và Adam Smith đã được gặp Voltaire là nhân vật mà ông kính trọng. Sau
đó Adam Smith đi tới thành phố Paris. Vào thời gian này, David Hume là Đại Sứ
Anh tại nước Pháp. Adam Smith được giới thiệu với các câu lạc bộ văn học danh
tiếng của phong trào Khai Sáng (the French Enlightenment) và nhờ vậy ông làm
quen với nhóm các nhà lý thuyết và cải cách xã hội, được gọi là các nhà kinh
tế (les économistes), đứng đầu nhóm là Francois Quesnay.
Đây là phong trào tìm kiếm phương pháp canh tân nền nông nghiệp của nước Pháp
bằng đường lối cải cách hệ thống thuế vụ và ông Quesnay đã phân tích lý thuyết
về công việc tiêu dùng đã được vận chuyển ra sao trong chu kỳ kinh tế để sinh
ra tài sản và sự tăng trưởng kinh tế. Adam Smith đã không đồng ý với ông
Quesnay về niềm tin rằng chỉ có các nông dân lao động trực tiếp với thiên
nhiên hay đất đai mới thực sự làm ra tài sản, thế nhưng ảnh hưởng của ông
Quesnay đối với Adam Smith rất lớn lao khiến cho nhà Kinh Tế Học người Anh này
đã có ý định đề tặng tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia" cho ông
Quesnay nếu như ông này đã không qua đời trước khi cuốn sách được xuất bản.
Cuộc hành trình của Adam Smith tới thành phố Paris bị cắt ngang vì cậu em trai
của Hầu Tước Buccleuch trẻ qua Pháp rồi cả hai đều bị bệnh nặng, cậu em trai
qua đời mặc dù ông và vị cận thần chăm sóc tận tâm. Adam Smith phải trở về
London và làm việc với Lord Townshend vào mùa xuân năm 1767. Vào năm này, ông
được bầu vào Hàn Lâm Viện Hoàng Gia (The Royal Society) và nhờ vậy, làm quen
với các nhân tài như Edmund Burke, Samuel Johnson, Edward Gibbson và có lẽ cả
với Benjamin Franklin.
Tới cuối năm 1767, Adam Smith trở lại Kirkcaldy và trong vòng 6 năm tại đây,
ông đã sửa chữa tác phẩm "Tài Sản" rồi sau ba năm sống nơi thành phố London,
tác phẩm kể trên mới được hoàn thành và xuất bản vào năm 1776.
Ngay sau khi được xuất bản, cuốn "Tài Sản của các Quốc Gia" đã được mọi
người khen ngợi, kể cả David Hume. Sau đó Adam Smith được bổ nhiệm làm Tổng
Giám Đốc Thuế Vụ miền Tô Cách Lan, một chức vụ rất nhàn, lương năm là 600 bảng
Anh, vì thế vào lúc tuổi già, ông rất giàu có. Adam Smith sống độc thân, trầm
lặng tại Edinburg, đôi khi đi du lịch tới thành phố London hay tới Glasgow,
nơi ông được mời giữ chức vụ Viện Trưởng Đại Học. Adam Smith đã viết thêm một
số tác phẩm nhưng các bản thảo đã bị ông ra lệnh đốt bỏ. Ông qua đời vào năm
1790 ở tuổi 67 khi vẫn còn danh tiếng, được chôn cất trong sân nhà thờ tại
Canongate và trên mộ chí của ông chỉ ghi vắn tắt rằng đây là nơi an nghỉ của
tác giả cuốn sách "Tài Sản của các Quốc Gia".
2/ Thời kỳ Khai Sáng.
Thời kỳ Khai Sáng hay còn được gọi là
thời đại của Lý Trí (the Age of Reason) là giai đoạn lịch sử bắt đầu
sau Cuộc Cách Mạng Rực Rỡ (The Glorious Revolution) tại nước Anh vào
năm 1688 và chấm dứt trước Cuộc Cách Mạng Pháp 1789, một thế kỷ về sau. Thời
kỳ Khai Sáng đáng nhớ không phải bằng năm tháng, mà bằng tên của các nhà triết
học danh tiếng như Montesquieu, Voltaire, Condorcet, Descartes, Diderot,
Rousseau… tại nước Pháp, Emmanuel Kant tại nước Đức, tại nước Ý có nhà sử học
kiêm triết học Giambattista Vico và nhà luật học kiêm xã hội học Beccaria, tại
nước Anh có John Locke, Edward Gibbson và Edmund Burke, tại Bắc Mỹ là Benjamin
Franklin, còn đại diện cho miền Tô Cách Lan là David Hume và Adam Smith.
Các nhà triết học của thời kỳ Khai Sáng
bị ảnh hưởng sâu đậm vì các khám phá do ngành Vật Lý, chẳng hạn như định luật
về sự rơi tự do của Galileo Galilei tại nước Ý, định luật về chuyển động và
trọng lực của trái đất khám phá do Isaac Newton tại nước Anh…
Nhờ Toán Học, các nhà khoa học đã tìm ra các định luật của thiên nhiên. Do căn
cứ vào các phương pháp khoa học, vào cách quan sát và thí nghiệm, các tiến bộ
quan trọng đã được thực hiện tại các bộ môn Toán Học, Vật Lý, Hóa Học, Thiên
Văn, Cơ Học… và các nhà triết học chấp nhận ý tưởng của triết gia người Anh là
Francis Bacon theo đó "kiến thức là sức mạnh".
Kiến thức vì thế được biên soạn thành các bộ Từ Điển Bách Khoa. Các nhà triết
học cũng thành lập các viện nghiên cứu khoa học và họ tin tưởng rằng phương
pháp khoa học có thể áp dụng vào công trình tìm hiểu bản chất của con
người.
Nhiều bộ môn Khoa Học Xã Hội như Triết Học, Giáo Dục, Luật Pháp và Chính Trị
Học đã được các nhà triết học khai phá, họ so sánh lý trí với sự ngu dốt,
với các điều mê tín dị đoan và cách chấp nhận thẩm quyền của người dân, họ
vạch ra các bất công xã hội và tấn công chế độ chuyên chế và phê phán giới
cầm quyền, nhất là Nhà Thờ Cơ Đốc La Mã (the Roman Catholic Church) đã duy
trì sự ngu dốt vì quyền lợi riêng tư của nhà thờ.
Các nhà triết học của thời kỳ Khai Sáng không phải là những kẻ
vô thần (atheists). Họ tin tưởng Thượng Đế toàn năng nhưng mục đích của
họ là trình bày rằng có thể điều tra được, tìm hiểu được
số mệnh (destiny) của con người trên trái đất và họ không chịu chấp
nhận niềm tin một cách thụ động do tôn giáo đặt ra. Các nhà lãnh đạo trí thức
của thời kỳ này đã dùng các khẩu hiệu như giáo dục, làm
sáng tỏ (clarification), phá vỡ các
điều huyền bí (demystification) trước các áp chế tinh thần.
Tới cuối thế kỷ 18, cách nhìn và cứu xét sự vật của các nhà triết học đã thay
đổi. Lý trí không còn được chú trọng mà thay vào là
"cảm xúc" (feeling).
Trật tự, kỷ luật và cách kiểm soát (discipline, order & control) đã
bị thay thế bằng
sự đam mê, tính cá nhân và tính cấp thời (passion, individuality &
spontaneity)
và khi thời kỳ Khai Sáng chấm dứt, phong trào Lãng Mạn bắt đầu.
1776 là năm bắt đầu của một giai đoạn lịch sử mới. Vào thời điểm này, cuộc
Cách Mạng Hoa Kỳ đã diễn ra, cuộc Cách Mạng Pháp đang âm ỉ và tốc độ của
cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ tăng dần do phát minh về năng lực hơi nước và một số
khám phá khác.
Vào lúc này tại nước Anh, đời sống kinh tế của người dân nằm dưới quyền kiểm
soát chặt chẽ của chính quyền: giá cả ổn định, tiền lương của giới lao động
thấp, sản phẩm được điều hòa, nền ngoại thương gồm cả nhập cảng và xuất cảng
hoàn toàn do chính quyền điều khiển, các giai cấp thống trị phản đối các đề
nghị phân phối tài sản, giáo dục chỉ được giành cho một thiểu số được ưu đãi,
hình luật thì rất khắt khe và các quyền lợi chính trị của đa số dân chúng chỉ
có về mặt lý thuyết.
Qua nhiều thập niên, giới quý tộc chủ đất đã nắm giữ chính quyền và hai giai
cấp mới đi lên là giới thương nhân và giới kỹ nghệ gia, đang đòi hỏi và nhận
được các đặc quyền. Họ chủ trương chỉ xuất cảng, hạn chế nhập cảng bằng thuế
cao, không cho đồng tiền ra khỏi xứ, tiền lương công nhân phải duy trì thấp và
giờ lao động phải dài… và tất cả các áp lực này đã được biến thành các đạo
luật do Nghị Viện Anh đặt ra.
Nước Pháp và một số quốc gia lớn tại châu Âu cũng theo hệ thống kinh tế này,
được gọi là thuyết "Trọng Thương" (mercantilism) với các niềm tin chính
như sau:
-
Thứ nhất, các nhà "trọng thương" chủ trương rằng tài sản và quyền
lực của quốc gia được đo lường bằng mức độ tích lũy "vàng và bạc",
và muốn có hai quý kim này, quốc gia phải đi chiếm đoạt các thuộc địa, họ
không coi trọng mức sống của người dân hay các thước đo lường kinh tế
khác,
-
Thứ hai, họ tin tưởng rằng tài nguyên của thế giới thì bị giới hạn, nên
một quốc gia giàu lên thì các quốc gia khác phải nghèo khó đi. Các nhà
trọng thương cũng tin rằng quốc gia phải xuất cảng nhiều sản phẩm kỹ nghệ,
nhập cảng nguyên liệu rẻ từ các thuộc địa và đây là các thị trường tiêu
thụ.
3/ Thuyết Trọng Thương.
Chủ thuyết Trọng Thương (mercantilism) là lý thuyết kinh tế theo đó
chính quyền phải kiểm soát nền ngoại thương (foreign trade) và phải
cân bằng về thương mại (balance of trade). Chủ thuyết Trọng Thương là
chính sách kinh tế đã chế ngự miền Tây của châu Âu từ thế kỷ 16 tới cuối thế
kỷ 18, là nguyên nhân đã gây ra các cuộc chiến tranh tại châu Âu và đã thúc
đẩy công việc bành trướng các thuộc địa.
Chủ thuyết Trọng Thương bao gồm các
chính sách sau đây:
- Đánh thuế cao, nhất là vào các hàng hóa kỹ nghệ,
- Thiết lập một hệ thống các thuộc địa ở hải ngoại,
- Độc quyền các thị trường với các hải cảng có hàng hóa chủ yếu,
- Cấm xuất cảng vàng và bạc,
- Trợ cấp xuất cảng,
- Khuyến khích chế tạo với các trợ cấp trực tiếp và nghiên cứu,
- Giới hạn lương bổng,
- Dùng tối đa các tài nguyên nội địa,
- Giới hạn cách tiêu thụ trong nước....
Các thực hành theo thuyết Trọng Thương được thấy vào thời Phục Hưng ở các
thành phố lớn của nước Ý như Venice, Genoa và Pisa khi người Ý tìm cách kiểm
soát việc buôn bán loại vàng nén.
Tại nước Anh, những người làm phát triển hệ thống Trọng Thương gồm có Gerard
de Malynes và Thomas Mun, rồi sau này tới Josiah Child. Tại nước Pháp, thuyết
Trọng Thương được phát triển vào thế kỷ 17, đặc biệt do ông Jean Baptiste
Colbert khi tại chức từ năm 1665 tới năm 1683.
Ông Philipp Wilhelm von Hornick, một luật sư và học giả người Áo trong cuốn
sách viết ra vào năm 1684 (Austria over All, If She Only Will), đã liệt kê ra
9 điểm, được coi như các giáo điều của chủ thuyết Trọng Thương:
-
Mỗi mảnh đất của quốc gia cần phải
được dùng để canh tác, đào hầm mỏ hay sản xuất hàng hóa,
-
Mọi nguyên liệu phải được sản xuất
ra hàng hóa tại trong nước, bởi vì hàng hóa đã được làm ra có giá trị hơn
nguyên liệu,
-
Quốc gia cần tới số lượng lớn dân
chúng ham làm việc,
-
Ngăn cấm xuất cảng vàng và bạc, và
tiền tệ cần được lưu hành trong xứ,
-
Không nên nhập cảng các hàng hóa
ngoại quốc,
-
Một số hàng hóa nhập cảng nên được
đổi bằng hàng hóa trong nước và không nên dùng vàng và bạc,
-
Nhập cảng nên giới hạn vào nguyên
liệu để sau này hoàn tất trong xứ,
-
Nên tìm kiếm cơ hội để bán đi các
hàng hóa sản xuất thặng dư, cho các nước ngoài, lấy vàng và bạc,
-
Không nên nhập cảng các hàng hóa
mà trong nước có thể cung cấp đầy đủ và thích hợp.
Chủ thuyết Trọng Thương đã phát triển
vào thời gian chuyển tiếp của nền kinh tế của châu Âu, khi mà các địa phương
phong kiến và rời rạc đã bị thay thế bằng các quốc gia có chủ quyền tập trung.
Các thay đổi về kỹ thuật đóng tầu, sự tăng trưởng của các trung tâm dân cư đã
làm gia tăng các công việc mậu dịch quốc tế. Ngoài ra, việc khám phá ra châu
Mỹ đã khiến cho có các thị trường mới, các hầm mỏ mới, tất cả đã
làm gia tăng công việc mậu dịch quốc tế lên tầm vóc cao hơn và làm cho chủ
thuyết Trọng Thương không còn thích hợp với thời đại mới.
Chủ thuyết Trọng Thương đã bị Adam Smith chỉ trích qua tác phẩm "Tài Sản" xuất
bản vào năm 1776 rồi sau này bởi David Ricardo(1772-1823) với tác phẩm "Các
nguyên tắc của môn Chính Trị Kinh Tế Học và môn Đánh Thuế" (Principles of
Political Economy and Taxation, 1817).
4/ Tác Phẩm "Tài Sản".
Adam Smith cho rằng các đường lối kinh tế của thuyết "Trọng Thương" thì sai
nhầm và có hại. Ông đã bỏ ra nhiều năm quan sát trực tiếp các hoạt động kinh
tế, nói chuyện với nhiều loại người liên hệ, đọc sách và suy ngẫm rồi bắt đầu
phác thảo cuốn sách "Tài Sản" từ năm 1759, và sau rất nhiều lần duyệt xét, có
thể sau lần thảo luận với ông Benjamin Franklin và Dr. Samuel Johnson, Adam
Smith mới đưa bản thảo cho nhà in rồi vào ngày 9 tháng 3 năm 1776, cuốn sách
thứ hai này được xuất bản.
Tác phẩm thứ hai của Adam Smith có tên là
"Tìm Hiểu Bản Chất và các Nguyên Do của Tài Sản của các Quốc Gia" (An
Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations),
gọi tắt là "Tài Sản của các Quốc Gia", hay "Tài Sản". Thực ra, tầm vóc bách
khoa của bộ sách hai tập này không chỉ bàn về bộ môn Kinh Tế Học.
Bắt đầu tác phẩm bằng phần thảo luận về
cách phân công lao động, tác giả đã cứu xét nguồn gốc và công dụng của tiền
tệ, giá cả của các loại mặt hàng, lương bổng của công nhân, lợi nhuận, tiền
thuê đất đai, trị giá của bạc, sự phân biệt giữa lao động sản xuất và lao động
phi sản xuất. Sau đó là phần trình bày sự phát triển kinh tế của châu Âu kể từ
khi Đế Quốc La Mã sụp đổ, các phân tích và phê bình chính sách thương mại và
thuộc địa của các quốc gia châu Âu, lợi tức quốc gia, các phương pháp quốc
phòng và điều hành luật pháp của các xã hội sơ khai, nguồn gốc và sự phát
triển của các đạo quân tại châu Âu, lịch sử giáo dục vào thời trung cổ, sự
phát triển các món nợ công (public debts) và cuối cùng là việc cứu xét các
nguyên tắc thuế vụ và hệ thống lợi tức công (public revenue).
Tác phẩm
"Tài Sản của các Quốc Gia"
không chỉ là một cuốn sách giáo khoa về kinh tế học mà còn là một cuốn từ điển
bách khoa. Tác phẩm này gồm hơn 900 trang, đòi hỏi người đọc phải mất nhiều
công sức để tìm hiểu bởi vì ông Adam Smith đã dẫn chứng hơn 100 tác giả khác
nhau để làm phát triển các lý lẽ của mình, trong đó có cả John Locke và David
Hume.
Một nhà phê bình sách đã gọi tác phẩm "Tài Sản" là
"một cuốn sách lịch sử và phê phán tất cả nền văn minh của châu Âu" (a
history and criticism of all European civilization), bởi vì trong tác phẩm này có rất nhiều đề tài để học hỏi. Tác phẩm "Tài
Sản" đã thảo luận về nguồn gốc và cách dùng tiền tệ, việc học nghề, thống kê,
sự phí phạn (waste), ngoại thương, giới chủ đất (landlords), giới tu sĩ (the
clergy), giới vua chúa (royalty), nghề nông và các vụ xáo trộn tại các thuộc
địa châu Mỹ.
Tác giả Adam Smith đã dùng rất nhiều tư
tưởng của các nhân vật theo chủ thuyết thiên nhiên (physiocrats), đặc biệt là
của ông Francois Quesney (1694-1774), một nhà kinh tế và vật lý người Pháp.
Adam Smith đã mượn của ông Quesney chủ thuyết
"tự do kinh doanh" (the doctrine of laissez faire).
Tóm lại, tác phẩm "Tài Sản" là một công trình đồ sộ bởi vì nó đã trình bày
một hình ảnh dễ hiểu về kinh tế học, đây là môt học thuyết cách mạng do cuốn
sách này đã nhìn nền kinh tế như là một cơ thể đang sinh sống (a living
organism).
Các định luật kinh tế của Adam Smith có
thể tóm tắt một cách sơ lược như sau:
-
Xã hội đã lệ thuộc vào nền kinh tế tư bản do hai định luật của thị trường
(two laws of the market). Lòng ham muốn của cải (the desire for wealth)
được nhận thấy tại mọi hành động của con người. Vì thế, lợi nhuận (profit)
hay tư lợi (self-interest) đã thúc đẩy mọi người làm các công việc mà xã
hội sẵn lòng trả tiền. Như vậy, định luật thứ nhất của thị trường là tư
lợi hay lý do lợi nhuận.
-
Các ham muốn ích kỷ của cá nhân đã làm lợi cho xã hội như thế nào? Thứ gì
đã ngăn cản lòng tham lam đang lan tràn trong công chúng, cản trở các kẻ
lợi dụng đã khai thác một cách tàn nhẫn các người khác? Adam Smith đã trả
lời câu hỏi này bằng đinh luật thứ hai, đó là sự cạnh tranh (competition).
Một cá nhân tính quá giá các món hàng sẽ thấy những kẻ cạnh tranh với mình
cung cấp các giá biểu rẻ hơn. Nếu đồng lương quá thấp, người công nhân sẽ
đi tìm ông chủ trả lương cao hơn. Như vậy động lực ích kỷ bị làm cho giảm
bớt do hành động tương tác, kết quả sẽ là xã hội sẽ có được sự hòa hợp.
Theo Adam Smith, nhờ hệ thống thị trường, mỗi người công nhân tự do chọn lựa
nghề nghiệp của mình. Thúc đẩy do tư lợi, người công nhân kén chọn một nghề
đặc biệt. Sự cạnh tranh đã không cho phép người công nhân này tính giá quá cao
và như vậy, tư lợi và sự cạnh tranh đã tác dụng với nhau để tạo ra cách cân
bằng (balance) nhờ vậy xã hội mới có thể tồn tại.
Các định luật của thị trường không
những làm cho các giá cả có tính cạnh tranh mà còn xác định số lượng
(quantities) của các món hàng sản xuất. Adam Smith đã cắt nghĩa rằng khi công
chúng đòi hỏi nhiều găng tay hơn giầy dép thì ngành thương mại về găng tay sẽ
phát triển tốt đẹp hơn trong khi sức cầu (demand) của giầy dép giảm đi. Sau đó
giá tiền của găng tay sẽ tăng cao bởi vì cầu hơn cung, khiến cho giá tiền bị
đẩy lên, giá tiền của giầy dép sẽ xuống bởi vì cung nhiều hơn cầu.
Tới lúc này, tư lợi trở thành một yếu
tố. Do bởi có nhiều lợi nhuận hơn vì buôn bán găng tay, nhiều nhà sản xuất đã
làm ra nhiều găng tay, các công nhân chuyển từ làm giầy dép sang làm găng tay
và kết quả là con số sản xuất găng tay tăng lên trong hi con số giầy dép đi
xuống. Số cung của găng tay tăng lên bằng số cầu, vì thế giá găng tay giảm
xuống. Trong khi đó, số cung về giầy dép thấp hơn số cầu, nên giá tiền của
giầy dép sẽ tăng lên, giá cả tăng, làm thúc đẩy công việc sản xuất, vì vậy các
lực đối kháng về tư lợi và cạnh tranh đã làm cân bằng thị trường.
Các định luật về thị trường cũng làm
điều hòa các lợi tức của các nhà sản xuất. Khi lợi tức của một thương mại trở
thành lớn lao thì sự việc này đã hấp dẫn các nhà sản xuất mới bước vào thứ
thương mại kể trên cho đến khi nào sự cạnh tranh làm giảm đi số lợi tức thặng
dư. Cũng theo cách này, một công nghệ trả lương cao hơn đã hấp dẫn các công
nhân do lương bổng cho đến khi mức cung về công nhân làm giảm đi số lương bổng
trả cao khi trước.
Các hoạt động của các định luật về thị trường cho thấy rằng thị trường tự điều
chỉnh lấy nó nếu người ta để cho sự cạnh tranh hoạt động tự do mà không có
cách kiểm soát của chính quyền và không có độc quyền.
Thực ra, hệ thống thị trương đã thực sự
hoạt động theo cách này không? Vào thời đại của ông Adam Smith, điều này đúng
bởi vì thế giới thương mại của thời đại đó là thế giới của sự cạnh tranh theo
căn bản (atomistic or elemental competition), và hai định luật tư lợi và cạnh
tranh vẫn còn là căn bản của hệ thống thị trường.
Ông Adam Smith còn nhìn xã hội bằng một con mắt lạc quan vì sự tiến bộ về kinh
tế, nên ông đã thêm vào 2 định luật phụ, đó là
định luật về tích lũy tài sản (the law of accumulation) và
định luật về dân số (the law of population).
Định luật về tích lũy tài sản nói về các lợi nhuận được đặt trở lại vào
công việc sản xuất. Do tích lũy tài sản, các nhà tư bản có thể mua thêm các
máy móc phụ và mới, sự kiện này đã thúc đẩy cách phân chia và chuyên môn hóa
lao động (division and specialization of labor), do đó mà lực sản xuất được
đẩy mạnh. Sản xuất tăng, càng cần thêm công nhân, dẫn tới lương bổng cao hơn
cho tới khi không còn lợi nhuận nũa.
Liên quan vê đinh luật dân số là sức lao động (labor). Giống như các
hàng hóa khác, sức lao động cũng là một thứ cầu (demand). Khi lương bổng của
công nhân tăng lên, số người làm công cũng tăng theo cho tới khi số lượng công
nhân sẽ đẩy lương bổng đi xuống. Vì lương bổng thấp, lợi nhuận dành cho nhà tư
bản sẽ tăng lên và nhờ vậy, sự tích lũy lợi nhuận sẽ tiếp tục.
Như vậy, hai đình luật về tích lũy lợi nhuận và dân số tạo nên môt dây
chuyền liên tục với nhau nhờ đó có sự tiến bộ và theo ông Adam Smith, nền
kinh tế sẽ khiến cho thế giới đi tới tình trạng là sự nghèo khó (poverty) và
sự giàu có (wealth) sẽ cân bằng với nhau.
Tại phần V của bộ sách, tác giả Adam
Smith đã phác họa bốn giai đoạn (stages) chính của cách tổ chức xã hội:
-
giai đoạn ban đầu gồm những người thợ săn thô sơ (rude state of
hunters),
-
giai đoạn thứ hai là nền nông nghiệp du mục (nomadic agriculture),
-
giai đoạn thứ ba là nền canh tác phong kiến (feudal farming) và
-
giai đoạn cuối cùng là sự liên hệ thương mại (commercial interdependence),
và đi kèm với mỗi giai đoạn là các định chế (institutions) thích hợp với
các nhu cầu của từng giai đoạn.
Luận đề chính của tác phẩm "Tài Sản" được căn cứ vào niềm tin rằng
"Mỗi con người đều chính thức bị thúc động bởi tư lợi " (self-interest) mà điển hình là lòng ham muốn tài sản (the desire for wealth). Các động lực
ích kỷ là căn cốt của các hành động của con người và tác giả đã tin tưởng
rằng tính ích kỷ cá nhân đã dẫn tới sự an lạc xã hội (society's welfare),
rằng nếu mỗi người cố gắng làm lợi cho chính mình một cách đều đặn, không
ngừng, thì sẽ dẫn tới sự thịnh vượng của quốc gia.
Người hàng thịt, người nấu rượu, người làm bánh mì chỉ vì tư lợi của họ mà
khiến cho chúng ta có bữa cơm ăn. Adam Smith còn cho rằng sự phân công lao
động và tích lũy tư bản đã dẫn tới nền kỹ nghệ mới.
"Một bàn tay vô hình" dẫn dắt con người trong khi làm việc có lợi cho
mình thì đồng thời đã đóng góp lợi ích cho tập thể và về điểm này, Adam Smith
đồng ý với Thomas Paine là
"một chính quyền tốt nhất là loại chính quyền cai trị ít nhất".
Trong cách phân phối lao động, Adam
Smith cho rằng nên phân chia tiến trình sản xuất thành các khâu đoạn nhờ đó
gia tăng mức độ sản xuất. Trước vấn đề của chủ nhân và công nhân, Adam Smith
đã viết:
"giới công nhân muốn đòi lương nhiều, giới chủ nhân muốn trả lương ít"
và tác giả đã có cảm tình với giới công nhân bởi vì lương bổng cao sẽ khiến
cho người công nhân ham hoạt động hơn, chăm chỉ hơn và hữu hiệu hơn, đồng thời
tác giả còn cho rằng các luật lệ về thời gian học nghề là sự can thiệp bất
công vào quyền lợi khi người công nhân ký khế ước làm việc, chọn nghề hay đổi
nghề từ chỗ trả lương thấp tới nơi trả lương cao.
Phần chính của tác phẩm "Tài Sản" là
quyển IV có tên là
"Về các hệ thống kinh tế" (Of Systems of Political Economy). Ở đây, tác
giả cứu xét hai hệ thống: hệ thống thương mại và hệ thống nông nghiệp và phần
nông nghiệp chỉ dày bằng 1/8 của phần thương mại. Adam Smith đã làm phát triển
các nguyên tắc "tự do kinh doanh" (the principles of laissez-faire) và
tất cả các hoạt động kinh tế dẫn tới tự do mậu dịch (free trade) bên
trong cũng như bên ngoài, bởi vì nhờ nền thương mại không bị giới hạn trong
nước và ngoài nước mà một quốc gia có thể phát triển toàn diện.
Lý thuyết về kinh tế của Adam Smith rất
phức tạp, khó hiểu đối với người đọc ngay cả 200 năm về sau. Trong cuốn sách
"Lịch Sử của Nền Văn Minh", Henry Thomas Buckle đã nhận định rằng
cuốn sách "Tài Sản của các Quốc Gia" có lẽ là tác phẩm quan trọng nhất đã
từng được viết ra nếu xét về các tư tưởng căn bản chứa đựng bên trong hay về
các ảnh hưởng thực tế đối với nền kinh tế.
Adam Smith hiện diện giữa hai thời đại
lịch sử và ông đã biện hộ cho nền kinh tế tự do. Trong khi Cuộc Cách Mạng Kỹ
Nghệ đang tiến hành, các thương gia người Anh vì nhận rõ giá trị của các lý
thuyết của Adam Smith, đã bãi bỏ các giới hạn và đặc quyền của các nhà trọng
thương nên trong thế kỷ 19, họ đã làm phát triển nước Anh thành quốc gia giàu
có nhất thế giới. Các tư tưởng kinh tế của Adam Smith cũng ảnh hưởng tới các
quốc gia mậu dịch khác và Nhà Kinh Tế Học Adam Smith xứng đáng được gọi là
"Người Cha của Nền Kinh Tế Mới".
Phạm Văn Tuấn
Tài liệu tham khảo: Wikipedia.org.; Britannica Encyclopedia.
Post a Comment