Phạm Văn Tuấn
Jean Patrick Modiano là nhà văn viết
tiểu thuyết người Pháp lãnh Giải Thưởng Nobel Văn Chương vào ngày 09 tháng 10
năm 2014.
Văn Hào Patrick Modiano đã đoạt
- Giải
Thưởng Văn Chương Châu Âu năm 2012 của nước Áo (the 20112 Austrian State
Prizwe for European Literature),
- Giải Thưởng Thế Giới Cino Del Duca năm 2010
của Viện Pháp Quốc (the 2010 Prix mondial Cino Del Duca from the Institut of
France),
- Giải Thưởng Goncourt năm 1978 (the 1978 Prix Goncourt) vì cuốn tiểu
thuyết "Đường Phố của các Cửa Hiệu tối tăm" (Rue des boutiques obscures)
- và
vào năm 1972, tác giả Modiano đã lãnh Giải Thưởng Lớn phát về tiểu thuyết của
Hàn Lâm Viện Pháp (Grand Prix du roman de l'Academie francais) vì tác phẩm
"Các Đại Lộ vòng đai" (Les Boulevards de ceinture).
Các tác phẩm của Văn Hào Patrick
Modiano đã được phiên dịch sang hơn 30 ngôn ngữ, được ca ngợi trong nước Pháp
dù cho chỉ có vài cuốn tiểu thuyết của ông được dịch sang tiếng Anh ngay cả
khi tác giả này nhận được Giải Thưởng Nobel Văn Chương.
Trong kỳ tặng Giải Thưởng Nobel Văn
Chương năm 2014 này, Văn Hào Patrick Modiano đã vượt qua vài nhà văn danh
tiếng khác trên Thế Giới như nhà văn Nhật Bản Haruki Murakami, nhà văn người
Kenya Ngugi wa Thiong'o, nhà báo và tác gia của xứ Belarusia là Svetlana
Alexievich và nhà thơ Adonis người Syria.
Hàn Lâm Viện Thụy Điển đã ca ngợi Văn
Hào Patrick Modiano "vì nghệ thuật của trí nhớ, với thứ này tác giả đã gợi lên
các định mệnh con người, thứ định mệnh khó hiểu nhất và đã khơi lại thế giới
đời sống của thời kỳ bị chiếm đóng" (for the art of memory with which he has
evoked the most ungraspable human destinies and uncovered the life-world of
the occupation).
1/ Thời trẻ và học vấn.
Jean Patrick Modiano sinh tại
Boulogne-Billancourt, một xã thuộc vùng ngoại ô phía tây của thành phố Paris,
nước Pháp, vào ngày 30 tháng 7 năm 1945. Cha của ông Patrick tên là Albert
Modiano (1912-1977) là một người có nguồn gốc Do Thái, thuộc về gia đình
Sephardic của miền Salonica. Mẹ của ông là bà Louisa Colpijn, là một nữ diễn
viên người Bỉ (Flemish), còn được gọi bằng tên Louisa Colpeyn.
Cha và mẹ của ông Patrick Modiano đã
gặp nhau khi thành phố Paris bị quân đội Đức Quốc Xã chiếm đóng trong thời kỳ
Thế Chiến Thứ Hai. Ông Albert là người gốc Do Thái nhưng đã không đeo ngôi sao
vàng David trên cánh tay áo, đã không trình diện quân đội Đức trong khi tại
thành phố Paris, các người gốc Do Thái đã bị lùng bắt để bị đưa vào các trại
tù tập trung. Trong thời kỳ chiến tranh, ông Albert đã sinh sống nhờ buôn bán
trong thị trường đen cũng như la cà với các nhân viên mật vụ Đức Gestapo đóng
trên con đường phố Lauriston.
Thuở thiếu thời của cậu Patrick đã
khác biệt với các trẻ em cùng lứa tuổi. Cậu được ông bà ngoại nuôi dưỡng và
dạy nói tiếng Flemish (tiếng Bỉ), sau đó theo học trường trung học nhờ tiền
trợ cấp của chính phủ. Do cả hai cha và mẹ thường hay vắng nhà, nên Patrick
chỉ thân thiết với người em ruột tên là Rudy, nhưng cậu bé này đã qua đời vì
bệnh tật vào tuổi lên 10, vì thế các tác phẩm của nhà văn Patrick Modiano từ
năm 1967 tới năm 1982 đã được viết tặng cho người em Rudy.
Nhớ lại thời gian bi thương này, nhà văn Patrick Modiano đã viết ra cuốn hồi
ký danh tiếng, có tên là “Một Dòng Dõi” (Un Pedigree, 2005) và ông đã nói:
“tôi không thể viết ra được cuốn tiểu sử tự thuật (autobiography), vì vậy tại
sao tôi gọi cuốn truyện đó là một dòng dõi, đó là “một cuốn truyện nói nhiều
về cha mẹ tôi đã làm cho tôi hơn là tôi đã làm cho các người khác”.
Patrick Modiano đã theo bậc tiểu học
tại trường Montcel (Ecole du Montcel) tại Jouy-en-Josas, rồi trường trung học
Henry IV tại thành phố Paris. Trong thời gian theo bậc trung học này, cậu
Patrick đã học Hình Học với giáo sư kiêm nhà văn Raymond Queneau, ông này cũng
là một người bạn của bà mẹ của cậu Patrick. Patrick Modiano đã đậu xong Tú Tài
(Baccalaureat) tại Annecy nhưng đã không theo lên đại học.
Vào năm 1970, ông Patrick Modiano lập
gia đình với cô Dominique Zehrfuss, con gái của ông Bernard Zehrfuss, một kiến
trúc sư danh tiếng, họ có hai người con là Zina (1974) và Marie (1978).
2/ Con đường văn nghiệp.
Raymond Queneau là nhà văn, tác giả
của cuốn truyện “Zazie trong xe điện ngầm” (Zazie dans le metro). Patrick
Modiano đã quen với ông Queneau, việc gặp gỡ này là một sự việc quyết định bởi
vì ông Queneau đã giới thiệu Modiano với thế giới văn chương, đã mời Modiano
tham dự một bữa tiệc khoản đãi do nhà xuất bản Gallimard.
Nhà văn Patrick Modiano là một sản
phẩm của thời kỳ quân Đức Quốc Xã xâm chiếm nước Pháp khi Thế Chiến Thứ Hai
diễn ra, vì vậy nhiều cuốn tiểu thuyết của tác giả Modiano được xây dựng tại
thành phố Paris bị quân thù chiếm đóng, bắt đầu với cuốn "Quảng Trường Ngôi
Sao" (La Place de l'étoile). Thành phố Paris của tác giả Modiano thì u tối, bị
đe dọa, với các nhân vật di chuyển trong các vùng nước đục của chợ đen và ở
giữa lằn ranh rất mỏng manh là cộng tác với quân Quốc Xã hay theo quân Kháng
Chiến.
Vào năm 1968, ông Patrick Modiano đã
cho xuất bản cuốn truyện đầu tiên có tên là “Quảng Trường Ngôi Sao” (La Place
de l’étoile), đây là cuốn tiểu thuyết chiến tranh nói về một người Do Thái đã
cộng tác với quân Đức Quốc Xã. Cuốn truyện này đã làm cho người cha, ông
Albert Modiano, không vừa lòng, nên ông ta đã cố gắng mua lại gần hết các ấn
bản của cuốn tiểu thuyết kể trên.
Vào năm 2010, khi ấn bản viết bằng tiếng Đức của cuốn tiểu thuyết “Quảng
Trường Ngôi Sao” được phát hành, thì cuốn truyện đã đoạt Giải Thưởng hạng Nhất
của Đài Phát Thanh Tây Nam (Prize of the Southwest Radio Best-of List from the
Sudwestundfunk radio station = the German Preis der SWR- Bestenliste). Đài
phát thanh này đã ca ngợi cuốn truyện kể trên là một tác phẩm chính sau
Holocaust (a major Post-Holocaust work) (Holocaust là hỏa ngục Do Thái do quân
đội Đức Quốc Xã tạo nên để tận diệt 6 triệu người Do Thái trong Thế Chiến Thứ
Hai).
Năm 1973, ông Patrick Modiano đã viết
chung với một tác giả khác tập truyện phim “Lacombe, Lucien”, đạo diễn do
Louis Malle, cuốn phim kể về một cậu bé tham gia vào toán mật vụ Gestapo của
Đức Quốc Xã sau khi cậu bé này bị lực lượng Kháng Chiến Pháp từ chối, không
chấp nhận. Cuốn phim này đã gây ra cuộc tranh cãi vì thiếu phần chứng minh của
nhân vật chính. Cuốn phim "Lacombe Lucien" đã đoạt giải thưởng Oscar vào năm
1975 tặng cho phim hay nhất nói tiếng ngoại quốc (the Oscar for Best Foreign
Language film in 1975).
Các cuốn tiểu thuyết của ông Patrick
Modiano đều nghiên cứu sâu xa về sự rắc rối của bản dạng (identity), làm sao
người ta có thể tìm ra chứng cớ của sự hiện hữu của một con người qua các dấu
vết của quá khứ. Do bị ảnh hưởng bởi thời kỳ rắc rối và đáng xấu hổ khi bị
quân Đức Quốc Xã chiếm đóng và trong thời gian này, người cha là ông Albert đã
có các hành động mờ ám, nhà văn Patrick Modiano đã trở về với đề tài này trong
tất cả các tiểu thuyết của ông. Tác giả Modiano đã nói: “Sau mỗi cuốn tiểu
thuyết, tôi có cảm tưởng rằng tôi đã làm sáng tỏ mọi điều”, và tác giả viết
thường xuyên về thành phố Paris, mô tả sự tiến hóa của các con đường, các thói
quen và các con người của thành phố đó.
Tất cả các tác phẩm của nhà văn
Patrick Modiano đều viết từ một chỗ của chứng bệnh quên (không còn trí nhớ).
Trong cuốn “Đường Phố của các Cửa Hiệu tối tăm” (Rue des Boutiques obscure =
Missing Person), nhân vật chính chịu đau khổ vì trí quên, đã đi từ miền
Polynesia tới thành phố Rome để thử tìm cách nối lại với quá khứ . Cuốn tiểu
thuyết này đề cập tới sự tìm kiếm bản dạng (identity) không bao giờ chấm dứt
trong một thế giới mà “bãi cát giữ lại dấu chân của chúng ta nhưng chỉ trong
một ít thời gian”.
Trong cuốn truyện “Xa hơn vào Quên
Lãng” (Du Plus Loin de l’Oubli = Out of the Dark), người kể truyện nhớ lại mối
tình xa xưa nằm trong bóng tối vào thập niên 1960, với một người đàn bà bí ẩn.
15 năm sau khi hai người chia tay, họ gặp lại nhau nhưng người đàn bà đã đổi
tên họ và chối bỏ quá khứ. Thứ nào là thực, thứ nào là ảo, đều được nhìn thấy
trong cuốn tiểu thuyết giống như giấc mộng và đây là đặc điểm của lối văn bi
thương và các ám ảnh của tác giả.
Đề tài về trí nhớ (memory) cũng được
tác giả trình bày rõ ràng trong cuốn truyện “Dora Bruder”, sau này xuất bản
sang tiếng Anh với tên là “The Search Warrant = Lệnh Tìm Kiếm”. Dora Bruder là
cuốn tiểu thuyết pha trộn tiểu sử, tiểu sử tự thuật (autobiography), trinh
thám (detective), kể về lịch sử của một cô gái của những người Do Thái di cư,
thuộc miền Đông Âu, cô gái này sau khi đã bỏ trốn từ nơi an toàn là một tu
viện, nơi đã che dấu cô ta, rồi cuối cùng cô gái bị tống vào trại tập trung
Auschwitz.
Tác giả Modiano đã nói rằng đầu tiên
ông ta quan tâm tới câu chuyện của Dora khi ông ta đọc được tên những người bị
mất tích đăng trên tờ nhật báo Paris Buổi Chiều (Paris Soir) vào tháng 12 năm
1941. Do đam mê tìm kiếm quá khứ, ông Modiano bắt đầu cuộc điều tra, ông chắp
nối lại các mẩu báo, các lời trối trăn mơ hồ, các cuốn điện thoại niên giám cổ
xưa…
Trong cuốn tiểu thuyết thứ 26 của nhà
văn Patrick Modiano, có tên là “Chân Trời” (L’Horizon, 2011), người kể chuyện
tên là Jean Bosmans, một người mảnh khảnh, luôn luôn bị theo đuổi do bóng ma
của bà mẹ của anh ta, anh ta đã sống với tuổi trẻ và với các người mà anh ta
bị lạc mất. Trong số những người này có cô gái kỳ bí tên là Magaret Le Coz,
một người đàn bà trẻ mà anh ta đã đam mê vào thập niên 1960. Hai con người cô
đơn này đã trải qua nhiều tuần lễ lang thang trên các con đường cong queo của
thành phố Paris mà ngày nay người ta đã quên lãng. Một hôm, không được báo
trước, cô Magaret đã bước lên một toa xe lửa rồi biến dạng, nhưng không mất đi
trong trí nhớ của anh Jean. Bốn mươi năm về sau, Jean sẵn sàng tìm kiếm lại
mối tình đã biến mất của mình.
Một số các tác phẩm của nhà văn
Patrick Modiano đã được phiên dịch sang tiếng Anh, trong số này có cuốn
- “Các
Đại Lộ vòng đai” (Les Boulevard de ceinture, 1972 = Ring Roads, 1974),
- “Nhà
Villa buồn” (Villa Triste, 1975 = Villa Triste, 1977),
- “Khu Phố đã mất”
(Quartier perdu, 1984 = A Trace of Malice, 1988), và cuốn
- “Tuần Trăng Mật”
(Voyage de noces, 1990 = Honeymoon, 1992).
- Tác phẩm cuối cùng của nhà văn
Patrick Modiano là cuốn “Không lạc trong khu phố” (Pour que tu ne te perdes
dans le quartier, 2014).
3/ Các nhận xét về Văn Hào Patrick Modiano.
Văn Hào Patrick Modiano là tiểu thuyết
gia người Pháp đã nhận lãnh được Giải Thưởng Nobel Văn Chương năm 2014 với số
tiền thưởng là 8 triệu Kronors, hay 700,000 bảng Anh, hay 1.1 triệu Mỹ kim.
Ông Modiano là nhà văn thứ 15 đoạt được danh dự này, sau các nhân vật danh
tiếng khác như André Gide, Albert Camus và Jean Paul Sartre…, và văn hào Pháp
gần đây nhất là ông Jean-Marie Gustave Le Clézio lãnh Giải Thưởng Nobel Văn
Chương vào năm 2008.
Văn Hào Patrick Modiano đã nhận được Huy Chương và Tiền Thưởng vào ngày 10
tháng 12 năm 2014, đây là ngày kỷ niệm của ông Alfred Nobel đã qua đời vào năm
1896.
Trong kỳ xét Giải năm này, Ủy Ban
Nobel Văn Chương gồm 18 nhà văn xuất sắc của Thụy Điển, trong số 210 nhân vật
được đề nghị dự tranh tài, có 36 người là những người được đề cử lần đầu tiên,
rồi danh sách giảm xuống còn 20 ứng viên, sau cùng là 5 ứng viên được chọn
khiến cho các ông Viện Sĩ phải đọc lại toàn bộ các tác phẩm của những ứng viên
này.
Tổng Thư Ký thường trực của Hàn Lâm
Viện Thụy Điển là ông Peter Englund đã nói rằng ông Modiano là nhà văn rất dễ
hiểu: “không khó khăn khi đọc truyện của ông ta, ông ta viết văn rất đơn giản
bởi vì thể văn thì rất chải chuốt, giản dị và rõ ràng. Bạn mở một trang và sẽ
thấy đó là của Modiano với các câu văn ngắn, rất gọn gàng nhưng rất hoàn hảo
trong cách đơn giản”.
Ông Peter Englund đã gọi Văn Hào Modiano là “một loại Marcel Proust của thời
đại chúng ta” (a kind of Marcel Proust for our time), với các truyện kể lại
vào thời kỳ quân đội Đức Quốc Xã chiếm đóng thành phố Paris. Ông Englund cũng
nói rằng dĩ nhiên ông Modiano là một người châu Âu, da trắng, nhưng ông ta là
người đã viết ra thứ văn chương đặc sắc: “chúng tôi không làm việc theo chỉ
tiêu (quotas), chúng tôi chỉ cố gắng tặng phần thưởng cho sự tuyệt tác
(excellence) và chúng tôi không quan tâm tới người nào đó từ lục địa nào hay
thuộc phái tính nào”. Ông Peter Englung đã nhận xét rằng nhiều người bên ngoài
nước Pháp có vẻ như không quen với ông Modiano và các tác phẩm của ông ta, và
“Ông ta nổi danh trong nước Pháp mà không ở nơi nào khác”.
Ông Modiano biết được tin về Giải Thưởng khi ông đang đi trên đường phố Paris,
thì con gái ông báo tin qua máy điện thoại lưu động và tin tức này thật là bất
ngờ đối với ông.
Khi nhận được tin tức về việc tặng Giải Thưởng Nobel, Tổng Thống Pháp Francois
Holland đã nói: “Nước Cộng Hòa Pháp rất hãnh diện về sự công nhận quốc tế, qua
Giải Thưởng Nobel này, dành cho một trong các nhà văn lớn lao của chúng ta.
Ông Patrick Modiano là người Pháp thứ 15 nhận được sự đặc biệt to lớn này, xác
nhận ảnh hưởng rộng lớn của nền văn chương của chúng ta”.
Thủ Tướng Pháp Manuel Valls cũng mô tả Văn Hào Modiano là “một nhà văn của nền
văn chương rõ ràng, sắc bén… và không còn nghi ngờ gì nữa, ông ta là một trong
các nhà văn lớn nhất của các năm gần đây”.
Antoine Gallimard là nhà xuất bản của nhà văn Modiano đã kể lại: “Tôi đã gặp
ông Modiano qua điện thoại. Tôi đã khen ngợi ông ta và với sự khiêm tốn thường
xuyên, ông ta bảo tôi “thật là phi thường” và ông ta rất hạnh phúc”.
4/ Các tác phẩm của Văn Hào Patrick Modiano.
1968 La Place de l’étoile = Quảng Trường Ngôi Sao.
1969 La Ronde de nuit = Night Rounds (N.Y.: Alfred A. Knopf, 1971) = Đội
tuần tra đêm.
1972 Les Boulevards de ceinture = Ring Roads (London:Gollancz, 1974)
=
Các Đại Lộ vòng đai.
1974 Lacombe, Lucien: truyện phim cùng viết với Louis Malle.
1975 Villa triste = Nhà Villa buồn.
1977 Le Livret de famille = Cuốn Sổ Gia Đình.
1978 Rue des Boutiques obscures = Missing Person (London: Jonathan Cape,
1980) =
Đường phố của các Cửa Hiệu tối tăm.
1981 Une jeunesse = Một cô gái trẻ.
1981 Memory Lane = Con đường nhỏ ghi nhớ.
1982 De si brave garcons = Về các cậu con trai can đảm.
1984 Quartier Perdu = A Trace of Malice (Aidan Ellis, 1988) = Khu phố đã
mất.
1986 Dimanches d’aout = Các ngày Chủ Nhật tháng Tám.
1988 Catherine Certitude = Tin Chắc Catherine.
1988 Remise de peine = Bớt cơ cực.
1989 Vestiare de l’enfance = Phòng gửi áo của trẻ em.
1990 Voyage de noces = Honeymoon (Harper Collins, 1992) = Tuần Trăng
Mật.
1991 Fleurs de ruine = Hoa suy tàn.
1992 Un cirque passe = Đoàn xiếc đi qua.
1993 Chien de printemps = Chó của mùa xuân.
1995 Du plus loin de l’oubli = Out of the Dark (Bison Books, 1998) = Xa
hơn vào quên lãng.
1997 Dora Bruder = bản dịch tiếng Anh Dora Bruder (Univ. of California
Press, 1999)
hay là The Search Warrant (Harvill Press, 2000).
1999 Des inconnues = Những người vô danh.
2001 La Petite Bijou = Món nữ trang nhỏ.
2003 Accident nocturne = Tai nạn ban đêm.
2004 Un pedigree = Một Dòng Dõi.
2007 Dans le café de la jeunesse perdue = Trong quán cà phê của tuổi trẻ
đã mất.
2010 L’Horizon = Chân Trời.
2012 L’Herbe de nuit = Cỏ đêm.
2014 Pour que tu ne te perdes pas dans le quartier = Không lạc trong khu
phố.
Phạm Văn Tuấn
Tài liệu tham khảo: Wikipedia. Org.; Britannica Encyclopedia.
Post a Comment