Phạm Văn Tuấn
Quả bom Nguyên Tử đầu tiên thả xuống đất Nhật năm 1945 đã làm cho mọi người
kinh hoàng về thứ khí giới mới và cũng làm cho các nhà khoa học tin tưởng rằng
Thuyết Tương Đối của nhà Đại Bác Học Albert Einstein là đúng. Tuy sức tàn phá
của quả bom Nguyên Tử quá khủng khiếp, song người ta vẫn phải trầm trồ khen
ngợi một nhà bác học trẻ tuổi, cha đẻ ra quả bom này, Atomic Bomb hay A-Bomb.
Giáo Sư J. Robert Oppenheimer, Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Nguyên Tử Lực tại
Los Alamos thuộc tiểu bang New Mexico, Hoa Kỳ, trái lại rất chán nản về phát
minh của mình. Và chính ông Julius Oppenheimer cũng không ngờ người con trai
của mình lại trở nên một nhà bác học danh tiếng đến như thế, vì ông Julius chỉ
ước mong con trai trở thành một công dân trên trung bình.
1/ Thuở trẻ của Robert Oppenheimer.
Ông Julius Oppenheimer gốc người Do Thái, từ nước Đức sang Hoa Kỳ lập nghiệp
và hoạt động trong ngành xuất cảng vải sợi tại thành phố New York. Vốn là một
đại thương gia, ông đã nhiều lần cùng con trai sang thăm châu Âu.
Ngay từ thuở nhỏ, Robert đã tỏ ra là
một cậu bé thông minh và hiếu học. Cậu theo ban trung học trong thành phố New
York. Các sách viết bằng tiếng La Tinh, Hy Lạp, đối với cậu không khó và môn
Vật Lý được cậu ưa chuộng nhất. Trong các câu chuyện giữa chúng bạn, Robert
bàn luận rõ ràng, cậu ghét tính ba hoa và ưa tư lự. Phải chăng tính ưa thích
cô độc là một đặc tính của các nhà bác học?
Vào một dịp hè, ông Julius dẫn con trai đến phòng thí nghiệm của Giáo Sư
Auguste Klock, xin cho con theo học thêm về môn Hóa Học. Robert tiến bộ đến
nỗi cậu ngốn hết cả chương trình một niên học trong 6 tuần lễ. Ông Klock đã
phải ngạc nhiên về trí thông minh của cậu học trò mới này và đã nói:
“Cậu Robert học giỏi đến nỗi không vị Giáo Sư nào nỡ cấm cản không cho cậu
học thêm bài mới”.
Khi bước chân vào trường Đại Học
Harvard, Robert đã say sưa với các sách báo của thư viện nhà trường. Các tác
phẩm triết học Đông Phương cũng như Tây Phương đã làm chàng thanh niên này đam
mê, suy nghĩ. Trong 3 năm trường, chàng đã theo 6 môn học chính và 2 môn học
phụ, trong khi các sinh viên khác chỉ có thể học tối đa 5 môn học.
Rồi vào năm 1925, Robert Oppenheimer tốt nghiệp trường Đại Học Harvard với
hạng ưu và lời khen ngợi của Hội Đồng Giáo Sư. Sau đó chàng sang nước Anh và
ghi tên vào trường Đại Học Cambridge. Tại Cơ Sở Thí Nghiệm Cavendish, chàng
được theo học Giáo Sư J. Thomson và Lord Rutherford là các nhà tiền phong về
khảo cứu nguyên tử và cũng là các nhà bác học lừng danh thời bấy giờ. Chàng
cũng được gặp gỡ các nhà bác học lỗi lạc Niels Bohr người Đan Mạch, Paul Dirac
người Anh và Max Born người Đức. Ông Max Born mời chàng sang Đức theo học tại
trường Đại Học Goettingen.
Từ xưa, nước Đức vẫn nổi tiếng về Khoa
Học và Đại Học Đường Goettingen là một ngôi trường danh tiếng của châu Âu.
Robert Oppenheimer sang Đức và sau 6 tuần lễ ghi tên, chàng đã đậu văn bằng
Tiến Sĩ, năm đó chàng mới 23 tuổi. Các Giáo Sư đều khen ngợi bản luận án xuất
sắc của chàng về Nền Cơ Học Lượng Tử (la Mécanique Quantique). Ít lâu sau,
chàng lại sang Thụy Sĩ, theo học trường Bách Khoa Zurich là một trong các
trường kỹ thuật danh tiếng nhất của châu Âu.
Khi Robert trở về Hoa Kỳ, ông Julius hết sức ngạc nhiên vì thấy con trai gầy
còm chẳng khác gì một chiếc gậy. Thân hình cao lỏng khỏng, má hóp, ngực lép,
chàng Robert lại húng hắng ho. Ông Julius liền tìm cách cho con trai đi nghỉ
ngơi tại miền quê để dinh dưỡng cơ thể. Ông mua ngay cho con một nông trại
trong tiểu bang New Mexico. Tại nơi đây, cả ngày ngồi trên yên ngựa, chàng
Robert ngao du khắp các đồi núi. Cái nông trại miền New Mexico này không giống
với các nông trại khác. Nơi đây vắng vẻ, hiu quạnh, khiến cho người ta có cảm
tưởng một bãi sa mạc hơn là một miền đồng quê. Nhờ hít thở không khí trong
lành và nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, Robert Oppenheimer đã hoàn toàn bình phục.
Năm 1928, Viện Kỹ Thuật California (the California Institute of Technology =
C.I.T.) là nơi tụ tập các nhà vật lý danh tiếng trên thế giới, đã gửi giấy mời
ông Robert Oppenheimer giữ chức Giáo Sư của Viện. Trường Đại Học California
tại Berkeley (the University of California at Berkeley) cũng đón mời. Ông
Robert Oppenheimer nhận lời giảng dạy tại cả hai trường.
Trong hơn 10 năm giảng huấn, ông Robert Oppenheimer đã được cảm tình của hầu
hết sinh viên. Họ đã gọi ông giáo sư trẻ 24 tuổi này là Oppie cho tiện và thân
mật. Tuy giữ chức Giáo Sư Đại Học nhưng Giáo Sư Oppie lúc nào cũng bình dị và
nội tâm của ông vẫn là một chàng sinh viên ưa hoạt động và hiếu học. Robert
Oppenheimer không e ngại khi chính mình phải học thêm một môn học nào đó. Cũng
vì vậy ông tìm tới Giáo Sư Arthur Ryder là nhà bác học chuyên về Triết Lý Ấn
Độ và xin học chữ Phạn. Đây là sinh ngữ thứ tám của ông nhưng đối với ông cũng
không khó và ít lâu sau, ông đã hiểu thấu nền triết học rất uyên thâm và phức
tạp này.
2/ Thời kỳ khảo cứu Nguyên Tử.
Từ thập niên 1920, các lý thuyết mới về Quang Tử (Quantum) và Thuyết Tương Đối
(Relativity Theories) đã gây chú ý trong giới Khoa Học nên các khảo cứu ban
đầu của ông Robert Oppenheimer là về các hạt hạ nguyên tử (subatomic
particles), gồm cả các âm điện tử (electrons), dương điện tử (positrons) và
các tia vũ trụ (cosmic rays). Ngoài ra, ông còn huấn luyện một thế hệ mới các
nhà vật lý Hoa Kỳ và những khoa học gia này chịu ảnh hưởng của Robert
Oppenheimer cả về tinh thần độc lập lẫn tài lãnh đạo.
Từ năm 1933, sự việc Adolf Hitler lên nắm quyền tại nước Đức đã khiến cho ông
Robert Oppenheimer quan tâm tới chính trị. Vào năm 1936, ông Oppenheimer đứng
về phe các người Cộng Hòa trong cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha đồng thời ông cũng
có cơ hội làm quen với các người Cộng Sản. Nhưng các thảm cảnh mà Joseph
Stalin gây ra đối với các nhà Khoa Học Nga đã khiến cho ông Oppenheimer không
còn giao du với đảng Cộng Sản nữa mà chỉ là một người theo lý thuyết dân chủ
cấp tiến (liberal democratic philosophy).
Năm 1943, Thế Chiến Thứ Hai đang ở vào thời kỳ khốc liệt. Các gián điệp của
Hoa Kỳ báo tin rằng các nhà bác học Đức đã tìm ra Nguyên Tử và đang tìm cách
áp dụng kỹ thuật này vào khí giới chiến tranh. Vì vậy Hoa Kỳ phải quyết định
mở một cuộc chạy đua kỹ thuật nguyên tử và Lục Quân Hoa Kỳ được giao cho trách
nhiệm tổ chức các nhà khoa học người Anh và người Mỹ để tìm ra một phương pháp
chế ngự năng lượng nguyên tử dùng cho các mục đích quân sự. Theo đề nghị của
Tướng Leslie Groves, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đã mời ông Robert
Oppenheimer giữ chức Giám Đốc Trung Tâm Khảo Cứu Nguyên Tử Lực của Hoa Kỳ và
Trung Tâm này có mục đích chế tạo ra bom nguyên tử.
|
Huy hiệu trên vai áo của Manhattan Project
|
Thực ra, việc bổ nhiệm này cũng hơi lạ lùng. Tuy Robert Oppenheimer nổi tiếng
về ngành chuyên môn của mình tức là ngành Vật Lý Nguyên Tử, nhưng ông chỉ giỏi
về mặt lý thuyết, suốt ngày sống giữa tấm bảng đen và những con số mà chưa hề
sáng chế về máy móc hay điều khiển một trung tâm khảo cứu nào. Vào thời kỳ đó,
tại Hoa Kỳ không thiếu gì các nhà bác học lừng danh từ châu Âu chạy sang tị
nạn như Albert Einstein, Niels Bohr, Enrico Fermi... và ngay cả trong ngành
Nguyên Tử cũng không thiếu gì các Giáo Sư tài ba, nhiều tuổi hơn Robert
Oppenheimer, uy tín cao hơn để xứng đáng giữ trọng trách điều khiển Trung
Tâm.
Việc chế tạo bom nguyên tử là một công trình vĩ đại, nó đòi hỏi ở người chỉ
huy những đức tính mà chưa chắc gì một Giáo Sư Đại Học đã có đủ, và còn cần
tới một tài năng không những thuộc về địa hạt Khoa Học mà còn thuộc cả về địa
hạt Kỹ Nghệ và Quản Trị nữa. Dự Án Manhattan, tên riêng của dự án chế tạo bom
nguyên tử, được Tướng Leslie Groves thi hành. Ông này đã tín nhiệm Robert
Oppenheimer hơn là các nhà bác học đương thời danh tiếng khác.
Từ giã Đại Học Đường, Robert Oppenheimer với tuổi 38, đã tỏ ra là một nhân vật
xứng đáng giữ trọng trách đó. Ông đã thu được cảm tình của hầu hết các nhà bác
học tài ba dưới quyền cũng như đối với các chuyên viên. Trung tâm nghiên cứu
nguyên tử lực đầu tiên của Hoa Kỳ được đặt tại Los Alamos, gần thành phố Santa
Fe trong tiểu bang New Mexico, nơi mà trước kia, ông Oppenheimer đã từng lang
thang trên yên ngựa, đã biết từng đồi cát tới các con đường mòn. Nhà máy
nguyên tử này thật là lạ lùng: nó vừa là nhà máy vì gồm có các cơ xưởng lớn,
vừa giống như một tu viện vì mọi người làm việc quần quật suốt ngày, lại giống
một trại lính vì đóng ở giữa sa mạc, chung quanh có hàng rào kẽm gai bao bọc
và được canh phòng cẩn mật.
Trung tâm nguyên tử này có số vốn ban đầu là 60 triệu mỹ kim, lúc đầu chỉ gồm
400 người nhưng chẳng bao lâu tăng lên tới 4,500 công nhân. Người ta cố gắng
làm việc nhưng vào thời kỳ đó, chưa ai có thể tiên đoán được sức phá nổ của
nguyên tử vì từ trước tới giờ, lý thuyết nguyên tử vẫn còn nằm trong vòng giả
thuyết. Tại trung tâm nghiên cứu, ông Robert Oppenheimer bắt đầu tìm kiếm một
phương pháp tách chất Uranium- 235 ra khỏi Uranium thiên nhiên và xác định
khối lượng tới hạn (critical mass) của Uranium là chất để làm ra quả bom.
Trong giai đoạn nghiên cứu này, ông Robert Oppenheimer đã làm việc hơn 20 giờ
mỗi ngày, người gầy dộc đi đến nỗi chỉ còn nặng 52 kilô, trọng lượng này thật
là quá ít đối với một người cao 1,82 mét.
Ta đã trở nên Tử Thần và làm cho nhiều Thế Giới run sợ, hãi hùng.
--
Kinh Ấn Độ Bhagavad-Ghita
Ngày 16 tháng 7 năm 1945 là ngày quả bom nguyên tử đầu tiên được cho phát nổ
thử tại sa mạc Alamogordo trong tiểu bang New Mexico. Một làn chớp sáng lòa
rồi tiếp sau là một tiếng nổ long trời, làm cho mọi người tưởng chừng như được
chứng kiến một trận động đất dữ dội vậy. Sau đó, khói đen bốc lên cao ngất
trời theo hình một chiếc nấm vĩ đại. Trước cảnh tàn phá của thứ khí giới mới
khủng khiếp này, ông Robert Oppenheimer mới nhớ tới một câu trong quyển Kinh
Ấn Độ Bhagavad-Ghita:
“Ta đã trở nên Tử Thần và làm cho nhiều Thế Giới run sợ, hãi hùng”.
Sau khi hai quả bom nguyên tử A thả xuống đất Nhật và chấm dứt chiến tranh,
mọi người đều gọi ông Robert Oppenheimer là cha đẻ ra thứ bom A đó. Nhưng
riêng Giáo Sư Robert Oppenheimer lại bắt đầu ngờ vực thứ võ khí khủng khiếp mà
ông đã dày công chế tạo. Võ khí nguyên tử không những ảnh hưởng đặc biệt tới
quân sự mà còn trở nên vấn đề liên quan tới nền Đạo Đức nữa. Sự tàn phá của
bom nguyên tử lúc phát nổ rồi ảnh hưởng của bụi phóng xạ khi chất này tỏa
rộng, lẫn vào trong không khí mà rơi xuống đại dương, theo gió mà bay tới các
lục địa xa xôi, khiến cho mọi người e ngại về sự tồn vong của Nhân Loại.
|
Edward Teller
|
Trong khi ông Robert Oppenheimer hối hận vì phát minh của mình thì vài nhà bác
học khác lại nghĩ tới việc chế tạo một thứ bom khủng khiếp gấp ngàn lần: bom
khinh khí H. Người ủng hộ dự án này một cách nhiệt liệt nhất là nhà bác học
Edward Teller, người Mỹ gốc Hungary. Vì vậy tại Hoa Kỳ vào thời bấy giờ, có
hai phe, người ủng hộ dự án chế tạo bom H, kẻ phản đối thứ khí giới quá khốc
liệt đó.
Trong khi chính quyền Hoa Kỳ còn đang phân vân thì thình lình, người ta báo
tin rằng Liên Xô đã cho nổ thử một trái bom nguyên tử. Tin sét đánh này làm
cho nhiều người sửng sốt, phe ủng hộ dự án chế tạo bom H đã thắng và Tổng
Thống Harry Truman hạ lệnh chế tạo bom H đó. Được biết tin như vậy, ông Robert
Oppenheimer liền bước ra khỏi phòng khảo cứu và tuyên bố dứt khoát:
“Tôi không phải là một lái súng, tôi chỉ là một nhà bác học”. Ông
Robert Oppenheimer từ chức Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Nguyên Tử vào tháng 8
năm 1945.
Từ năm 1947 tới năm 1953, ông Robert Oppenheimer là Giám Đốc của Viện Nghiên
Cứu Cao Cấp thuộc trường Đại Học Princeton (the Institute for Advanced Study
at Princeton University) và cũng là Chủ Tịch của Ủy Ban Cố Vấn của Ủy Ban Năng
Lượng Nguyên Tử Hoa Kỳ (the U.S. Atomic Energy Commission = AEC). Ông cũng là
vị cố vấn cho Bộ Quốc Phòng Mỹ và giúp công vào việc soạn thảo bản đề nghị đầu
tiên của Hoa Kỳ về việc kiểm soát quốc tế năng lượng nguyên tử.
|
Einstein và Oppenheimer
|
Năm 1953, một số tài liệu nguyên tử của Hoa Kỳ bị mất cắp. Phong trào chống
Cộng Sản tại Mỹ đang lên bồng bột. Các nhà bác học nguyên tử là những người bị
nghi ngờ. Ông Robert Oppenheimer cũng ở trong số đó. Hơn nữa, ông có giao du
với một số phần tử Cộng Sản. Sở phản gián đã gom góp được nhiều tài liệu để
kết tội ông. Các địch thủ của ông hùa nhau vào để hạ ông. Cũng có nhiều người
đứng ra bào chữa cho ông như nhà Đại Bác Học Albert Einstein và Phó Tổng Thống
Richard Nixon.
Vào tháng 4 năm 1954, ông Robert Oppenheimer bị lôi ra trước một ủy ban điều
tra của Ủy Ban Năng Lượng Nguyên Tử nhưng Tổng Hội Các Nhà Khoa Học Mỹ (the
Federation of American Scientists) đã lên tiếng bảo vệ ông Oppenheimer trước
tòa án. Vụ xét xử về an ninh này đã công bố rằng ông Robert Oppenheimer không
phạm tội phản bội nhưng ông không được phép tiếp xúc với các bí mật quân sự.
Kết quả là chức vụ cố vấn cho Ủy Ban Nguyên Tử Lực Hoa Kỳ của ông bị hủy bỏ.
Sự lên án này đã làm sôi nổi dư luận tại Hoa Kỳ và tại châu Âu. Ông Robert
Oppenheimer là một biểu tượng quốc tế của các nhà Khoa Học cố gắng giải quyết
các vấn đề đạo đức (moral problems) sinh ra trong công cuộc khám phá Khoa Học
và ông cũng trở nên một nạn nhân của công cuộc săn tìm phù thủy (a
witch-hunt).
Tuy đã bị mất chức, nhưng từ năm 1947 tới năm 1966, ông Robert Oppenheimer vẫn
còn là Giám Đốc của Viện Nghiên Cứu Khoa Học Cao Cấp tại Princeton thuộc tiểu
bang New Jersey. Tại Viện Khảo Cứu của tư nhân này, các nhà bác học lỗi lạc
được tự do tìm tòi, làm sao cho thiên tài của họ được phát triển tối đa.
Vào năm 1963, Ủy Ban Năng Lượng Nguyên Tử Hoa Kỳ đã trao tặng ông Robert
Oppenheimer phần thưởng Enrico Fermi. Đây là danh dự cao quý nhất để khen
thưởng các đóng góp của ông vào nền Vật Lý Lý Thuyết. Nhiều người cho rằng
công việc này là một cố gắng của Chính Phủ Hoa Kỳ để sửa chữa lỗi lầm khi
trước. Ông Robert Oppenheimer về hưu năm 1966 và qua đời vào ngày 18 tháng 2
năm 1967 tại thành phố Princeton vì bệnh ung thư cổ.
Khi còn sinh thời, ngoài việc nghiên cứu Khoa Học và viết sách, ông Robert
Oppenheimer còn ham thích các môn Hội Họa và Âm Nhạc. Phải chăng hai Nghệ
Thuật này là các món ăn phụ của các đầu óc Khoa Học phi thường?
Phạm Văn Tuấn
Tài liệu tham khảo: Wikipedia.Org.; Britannica Encyclopedia.
Manhattan Project
Post a Comment