I/ Cuộc đời của Nhà Văn Naguib Mahfouz.
Naguib Mahfouz sinh ngày 11/12/1911 tại Gamaliya, thành phố Cairo, nước Ai
Cập, trong một gia đình sinh sống trong hai quận rất quen thuộc của thành
phố Cairo là al-Jamaliya và al-Abbasiya và nơi đây là hậu cảnh của nhiều
cuốn truyện do nhà văn này sáng tác.
Cha là một công chức, vì thế sau này
ông Mahfouz đã đi theo con đường của cha. Vào thuở thiếu thời, cậu Naguib
thường được bà mẹ dẫn đi coi các Viện Bảo Tàng và Viện Lịch Sử nên những nơi
này đã là các đề tài chính trong các cuốn truyện của ông Mahfouz.
Năm 1934, ông Mahfouz tốt nghiệp Phân
Khoa Triết Học (Philosophy Department) thuộc trường Đại Học Văn Khoa
(Faculty of Arts) nằm trong Viện Đại Học Cairo, rồi sau 2 năm theo học
chương trình Cao Học (M.A.), ông Naguib Mahfouz đã quyết định trở nên một
nhà văn chuyên nghiệp. Ông viết bài cho tờ báo Ar-Risala và cũng đóng góp
bài cho hai tờ báo Al-Hilal và Al-Ahram.
Trước khi chuyển sang viết tiểu
thuyết, ông Mahfouz đã viết nhiều bài báo và truyện ngắn. Cuốn truyện đầu
tiên của ông được xuất bản năm 1938 rồi qua năm sau, ông Mahfouz làm công
chức cho chính phủ Ai Cập và đã theo nghề nghiệp này trong 35 năm trường.
Từ năm 1939 tới năm 1954, ông Naguib
Mahfouz là công chức của Bộ Ủy Tặng (the Ministry of Endowments) rồi sau đó
làm giám đốc của Cơ Quan Yểm Trợ Điện Ảnh (Director of the Foundation for
Support of the Cinema), thuộc Tổ Chức Điện Ảnh Quốc Gia (the State Cinema
Organization). Trong hai năm từ 1969 tới 1971, ông Mahfouz là cố vấn cho Bộ
Văn Hóa (the Ministry of Culture) chăm lo các công tác điện ảnh.
Các tác phẩm ban đầu của ông Mahfouz
là ba cuốn tiểu thuyết lịch sử:
"Điều Nực Cười của Định Mệnh" (Ironies of Fate = Abath al-Agdar,
1939), "Ái Phi Radubis" (Radubis, 1943) và
"Cuộc Đấu Tranh của thành phố Thebes" (The Struggle of Thebes, 1944).
Tác giả Naguib Mahfouz đã bị ảnh hưởng của nhà văn người Anh Sir Walter
Scott (1771-1832) khi ông dự tính trình bày lịch sử của nước Ai Cập bằng 30
cuốn tiểu thuyết mà các cuốn kể trên chỉ là phần đầu.
Sau tác phẩm thứ ba, nhà văn Mahfouz chuyển cách chú tâm sang các ảnh hưởng
tâm lý đối với con người bình thường trong thời hiện nay. Trong thập niên
1950, sáng tác chính của ông Mahfouz là tập hợp ba cuốn Truyện Cairo (The
Cairo Trilogy) và tác giả đã hoàn thành các cuốn này trước cuộc Cách Mạng
Tháng 7. Các tiểu thuyết này có tên là "Lâu Đài Tản Bộ" (Palace Walk
= Bayn al-Qasrayn, 1956), "Lâu Đài của Ước Muốn" (Palace of Desire =
Quasr al-Shawq, 1957), "Dãy Phố Đường" (Sugar Street = al-Sukkariyah,
1957).
Nhà văn Mahfouz đã cho các câu chuyện xảy ra tại thành phố Cairo, nơi mà tác
giả đã trưởng thành và các cuốn truyện đã mô tả cuộc đời của Abd al-Jawad và
gia đình của ông ta với ba thế hệ, sinh sống tại Cairo từ Thế Chiến Thứ Nhất
tới thập niên 1950, khi mà Vua Farook I bị truất phế. Cách diễn tả các nhân
vật, sự hiểu rõ tâm lý của những người này đã khiến cho độc giả liên tưởng
tới các nhà văn danh tiếng trên thế giới như Tolstoy, Dickens, Balzac và
Galsworthy.
Từ năm 1959, ông Naguib Mahfouz lại
sáng tác rất phong phú nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, bài bình
luận, bài hồi ký và các kịch bản. Qua tác phẩm
"Các Người Con của Gebelaawi" (Children of Gebelaawi, 1959), tác giả
đã mô tả ông phú hộ Gebelaawi và các con cháu. Ông ta xây dựng một tòa nhà
lớn giữa một sa mạc trơ trụi. Vùng đất đai này là nơi diễn ra mối thù hận
kéo dài qua nhiều thế kỷ.
Trong thập niên 1960, nhà văn Mahfouz đã viết ra các cuốn tiểu thuyết hiện
sinh, khai triển các đề tài qua đó nhân loại đã đi xa dần Thượng Đế. Vào
thập niên này, tác phẩm chính là cuốn
"Kẻ Trộm và các con Chó" (The
Thief and the Dogs = Al-Liss wa-al Kilab, 1961).
Sau khi không làm giám đốc sở Kiểm
Duyệt (the Director of Censorship), ông Naguib Mahfouz được bổ nhiệm làm
giám đốc Cơ Sở Yểm Trợ Điện Ảnh (Director of the Foundation for the Support
of the Cinema). Ông cũng là biên tập viên chính của tờ nhật báo hàng đầu
Al-Abram rồi qua năm 1969, trở thành cố vấn cho Bộ Văn Hóa, rồi sau đó, ông
về hưu năm 1972. Từ nay, ông Mahfouz là một nhân vật trong hội đồng quản trị
nhà xuất bản Dar al Ma'aref. Phần lớn các tiểu thuyết của ông Naguib Mahfouz
đều được đăng trên tờ báo Al-Ahram, còn các bài bình luận trên mục Quan Điểm
(Point of View).
Trong thập niên 1960 và 1970, nhà văn
Naguib Mahfouz cấu tạo các tiểu thuyết theo cách phóng khoáng hơn và dùng
tới các độc thoại. Trong cuốn "Miramar" (1967), tác giả đã dùng tới
cách kể chuyện của nhiều ngôi thứ nhất. Các người kể chuyện đã đại diện cho
các quan điểm chính trị khác nhau, chẳng hạn như các ý tưởng của một người
theo Xã Hội Chủ Nghĩa hay của một kẻ xu thời theo lãnh tụ Nasser.
Trong cuốn
"Các Đêm và Ngày Ả Rập" (Arabian Nights and Days = Layali alf Laylah,
1981) và trong cuốn "Cuộc Hành Trình của Ibn Fatoume" (The Journey of
Ibn Fatoume = Rihlat ibn Fattumah, 1983), nhà văn Mahfouz đã dùng cách kể
chuyện Ả Rập cổ điển. Tác phẩm "Vua Akhenaton" trình bày sự xung đột
giữa các chân lý tôn giáo cũ và mới.
Qua các tác phẩm văn chương, nhà văn
Naguib Mahfouz đã mô tả sự phát triển của quê hương của mình trong thế kỷ
20. Ông đã phối hợp các ảnh hưởng trí thức và văn hóa từ phương đông và
phương tây, dùng kinh nghiệm của chính mình khi vào tuổi thiếu niên, đã học
hỏi nền văn chương không-Ả-Rập và đã ham đọc các truyện trinh thám của
phương tây. Các cuốn truyện của nhà văn Mahfouz thường được diễn ra tại khu
vực đông dân của thành phố Cairo, chú trọng tới các nhân vật phải đối phó
với công việc canh tân hóa xã hội và phản ứng ra sao trước các cám dỗ của
các giá trị phương tây.
Với hơn 40 cuốn tiểu thuyết và các
tập truyện ngắn và được coi là "Nhà Văn Balzac của Ai Cập", tác giả
Naguib Mahfouz đã tạo nên những nhân vật mà tên gọi của họ trở thành những
danh từ quen thuộc trong các gia đình và ông Mahfouz được rất nhiều độc giả
coi là người phát ngôn không chỉ của nước Ai Cập mà còn của các nền văn hóa
không phải là Tây Phương.
Trước khi lãnh được Giải Thưởng Nobel
Văn Chương, nhà văn Naguib Mahfouz chỉ có vài tác phẩm dịch sang tiếng Anh
và bà Jacqueline Onassis đã là một trong vài người đầu tiên mang những tác
phẩm này giới thiệu với các độc giả đọc tiếng Anh.
Vào năm 1994, nhà văn Naguib Mahfouz
bị hai kẻ cuồng tín Hồi Giáo dùng dao đâm vào cổ, ông đã phải nằm điều trị
tại bệnh viện một thời gian và hai kẻ tội phạm đã bị kêu án tử hình vào năm
1995.
Sáng sớm ngày 30/8/2006, Văn Hào
Naguib Mahfouz đã qua đời trong bệnh viện của thành phố Agouza.
2/ Một số tác phẩm của Văn Hào Naguib Mahfouz.
Trong Bài Diễn Văn đọc trước cử tọa khi lãnh Giải Thưởng Nobel Văn Chương,
Văn Hào Naguib Mahfouz đã nói:
Tôi là đứa con của hai nền văn minh mà vào một thời đại nào đó trong lịch
sử, đã kết duyên êm thắm với nhau. Nền văn minh thứ nhất, lâu đời 7 ngàn
năm, là thứ của các Vua Pharaoh (the Pharaonic civilization), nền văn minh
thứ hai kéo dài 1,400 năm, là nền Văn Minh Hồi Giáo.
Hai ngàn năm về trước và trong nền
văn chương Ả Rập, Thơ Phú là loại xuất sắc nhất. Tại nước Ai Cập, truyện
"Nghìn lẻ một Đêm" (The Arabian Nights) là một tập hợp các chuyện kể
của các xứ Ấn Độ, Iran và Iraq, và đã được kết tinh thành một hình thức phát
triển tốt đẹp nhất, trong khi đó tại xứ Ai Cập, hình thức kể chuyện đã có từ
lâu đời và tồn tại cho tới ngày nay.
Trái với Thơ Phú, các tiểu thuyết của
xứ Ai Cập là kết quả của năm ảnh hưởng:
-
Văn chương của châu Âu ảnh hưởng tới xứ sở này trong khi tiểu thuyết là
thể loại chính phát triển trong hai thế kỷ 18 và 19,
-
Việc thiết lập các nhà in trong thế kỷ 19 cùng với sự bành trướng của
các tờ báo,
- Nền giáo dục công cộng và công việc xóa nạn mù chữ,
-
Công cuộc giải phóng dần dần khỏi các đàn áp của các lực lượng ngoại
quốc, khởi đầu bằng triều đại của vua Muhammad Ali sau khi quân đội Pháp
chiếm đóng Ai Cập vào đầu thế kỷ 18,
-
Sự xuất hiện của giai cấp trí thức với nền học vấn rộng rãi và mang tính
quốc tế.
Như vậy, bộ môn tiểu thuyết của xứ Ai Cập đã ra đời, học hỏi từ các tiểu
thuyết của châu Âu và sau các thời gian thí nghiệm, đã tiến bộ. Tác phẩm
"Zaynab" xuất bản năm 1912 của nhà văn Muhammad Husayn Haykal
(1888-1956) được coi là cuốn tiểu thuyết Ai Cập đầu tiên. Sau đó còn có các
sáng tác của các nhà văn khác như Taha Husayn (1889-1973), Ibrahim al-Mazini
(1890-1949), Mahmud Tahir Lashin (1894-1954) và Tawfiq al-Hakim
(1898-1987)...
Sự phát triển này đã dẫn tới đỉnh cao
nhất là các sáng tác của Văn Hào Naguib Mahfouz, đoạt Giải Thưởng Nobel Văn
Chương vào năm 1988. Đây là nhà văn viết ngôn ngữ Ả Rập đầu tiên đã nhận
được danh dự cao quý này.
Các tác phẩm ban đầu của ông Mahfouz là các tiểu thuyết lịch sử: "Điều Nực
Cười của Định Mệnh" (Ironies of Fate = Abath al-Agdar, 1939), "Ái Phi
Radubis (Radubis, 1943) và "Cuộc Đấu Tranh của thành phố Thebes" (the
Struggle of Thebes, 1944).
Tác phẩm
"Điều Nực Cười của Định Mệnh" (Abath al-Agdar) được căn cứ vào một
truyền thuyết cổ Ai Cập. Khởi đầu cuốn tiểu thuyết này có tên là
"Sự Khôn Ngoan của Cheops" (the Wisdom of Cheops). Đây là vị vua Ai
Cập Pharaoh sống vào khoảng năm 2680 trước Tây Lịch, trong triều đại thứ 4
của Vương Triều Cổ (Old Kingdom). Nhà vua này được một người thầy bói cho
biết rằng sau khi băng hà, vương quốc sẽ không về tay hoàng tử nối ngôi mà
sẽ thuộc về Dedef, người con trai của một tu sĩ thuộc ngôi đền Ra. Vua
Cheops vì thế đã tìm mọi cách để thay đổi tương lai và trong các hoàn cảnh
phức tạp xẩy ra, mọi ý muốn sửa đội định mệnh đã trở thành vô vọng và định
mệnh này cũng phức tạp như số mệnh của Vua Oedipus hay như truyền thuyết về
nhà tiên tri Moses.
|
|
Cuốn tiểu thuyết thứ hai, "Ái Phi Radubis" (Radubis) là câu chuyện kể
về một cung tần trong triều đình Cổ Ai Cập. Nàng là người yêu của Vua
Pharaoh Mernere II và cuốn tiểu thuyết là thiên tình sử của hai người. Người
Ai Cập đã không biết nhiều về Vua Mernere II này mà chỉ hiểu sơ sài rằng nhà
vua đã cai trị xứ sở trong một năm vào cuối triều đại thứ 6, vào thời kỳ này
có bà hoàng hậu Nitocris, nổi danh về sắc đẹp. Tình yêu của nhà vua và ái
phi Radubis là một cuộc tình hoàn toàn tận hiến. Các thần linh đã thừa nhận
mối tình này và nhà vua đã dùng nhiều tài sản của đất nước để ca ngợi người
đàn bà tuyệt vời đã chiếm được trái tim của vị quân vương.
Trong tác phẩm thứ ba "Cuộc Tranh Đấu
của thành phố Thebes" (Kifah Tiba), tác giả đề cập tới các cuộc chiến tranh
Hykos cùng với sự suy thoái và sụp đổ của Vương Triều Trung Đại (the Middle
Kingdom) kéo dài từ năm 1785 tới năm 1575 trước Tây Lịch. Ngày xưa, nước Ai
Cập đã bị đô hộ do một lực lượng có nguồn gốc từ châu Á và khi các người
Hykos bị đánh đuổi khỏi xứ sở này, nước Ai Cập trở nên độc lập và bắt đầu
xây dựng một quốc gia mới, thịnh vượng, được gọi là Vương Triều Mới (New
Kingdom). Tác giả Naguib Mahfouz đã mô tả sự thành lập của quốc gia, đà
thăng tiến của tinh thần ái quốc, sự tranh đấu cho nền độc lập cũng như cách
lập lại niềm tin tưởng vào đất nước.
Trong nhiều tiểu thuyết của nhà văn
Mahfouz, người phụ nữ đã đóng một vai trò chính yếu và tác giả đã mô tả các
gái điếm, các người đàn bà bị đổ vỡ về gia cảnh... là những nhân vật mạnh mẽ
và có khi rất khôn ngoan. Cảm tình của tác giả là về phía những người bị đàn
áp, các kẻ khốn cùng, các người yếu đuối, và người phụ nữ thường được coi là
nạn nhân của các hoàn cảnh tàn nhẫn.
Trong cuốn tiểu thuyết "Khu Lao
Động" (Khan al-Khalili, 1945), nhà văn Naguib Mahfouz mô tả cuộc đời và thảm
cảnh của một gia đình phải rời khỏi nơi cư ngụ, dọn về một khu vực nghèo hèn
hơn trong thành phố. Kế tiếp là tác phẩm "Ngõ Midaq" (Midaq Alley = Zuqaq
al-midaqq, 1947) với nhân vật chính là một người đàn bà thuộc giai cấp thấp
hèn trong thời kỳ Thế Chiến Thứ Hai. Một người Ai Cập là thợ làm tóc, đã yêu
bà này trong khi đó còn có các người lính Anh đóng quân trong thành phố.
Tình yêu và cơn ghen ghét đã được tác giả trình bày trong cuốn truyện.
Năm 1948, nhà văn Naguib Mahfouz cho
phát hành cuốn tiểu thuyết tâm lý "Ảo Ảnh" (The Mirage = Al-Sarab). Đây là
chân dung của tình mẫu tử với các bản tính của người mẹ và có các đề tài
liên quan tới số mệnh, lòng mong ước, nỗi tủi nhục... tất cả đã được nêu lên
nhưng chưa giải đáp. Một người đàn bà bị chồng bỏ rơi, đã nuôi đứa con trai
tới tuổi trưởng thành nhưng đứa con này đã không yêu thương mẹ, đã cãi cọ
khiến cho bà mẹ bị chết vì bệnh tim.
Trong ba cuốn Truyện Cairo (the
Cairo Trilogy), tác giả Naguib Mahfouz đề cập tới quyền lực và sự suy đồi
với thành phố Cairo thuở trước và hiện nay. Ba thế hệ của gia đình ông
al-Jawad đã sinh sống tại thành phố này từ đầu thế kỷ 20, với người cha áp
đảo, với các người con có các sở thích cá nhân khác nhau và mỗi người đều
mong muốn các tự do riêng trước nhiều vấn đề như chủ nghĩa khoái lạc, chế độ
cộng sản cũng như đạo Hồi thuần tín (the fundamentalist Islam). Ba cuốn
truyện này đã trình bày các hướng nhìn khác nhau của các người con ở cùng
một địa phương và tác phẩm đã giới thiệu cuộc đời riêng tư của một người vợ
bị áp chế nhưng bà ta vẫn là nguồn của tình thương và sự chăm sóc. Tập quán
của xã hội, tư cách cùng với sự hướng dẫn của người mẹ đã giữ cho gia đình
trở về một mối trước các xáo trộn của thời kỳ chiếm đóng của quân đội Anh,
trước các đối đầu giữa các giá trị của phương đông và phương tây.
Trong cuốn tiểu thuyết "Các người
con của ông Gebalaawi" (The Children of Gebalaawi = Awlad haratina, 1959),
nhà văn Naguib Mahfouz đã gán cho các nhân vật trong truyện mang các hình
ảnh của các nhân vật tôn giáo: Gebalaawi là đấng Allah, đấng Sáng Tạo và
Toàn Năng, và các nhân vật khác như Idris, Adhan, Jabal, Rifa'a, Qasim hay
Arafa... ám chỉ quỷ Satan, nhà tiên tri Moses, Chúa Jesus, nhà tiên tri
Muhammad..., nhưng khung cảnh lại diễn ra tại vùng ngoại ô của thành phố
Cairo, ở chân các ngọn đồi Moqattam, với các gia đình gồm đủ cả cãi lộn,
thương yêu và hy vọng. Các người dân này đã lo sợ hoặc nghe lời các nhà chức
trách địa phương, trong khi các người khác trông cậy vào tôn giáo để tìm ra
nguồn cứu rỗi. Tất cả nhân vật, hoàn cảnh... đã được mô tả một cách căng
thẳng, trong đó có sự đối đầu giữa điều tốt và điều xấu.
Khi cuốn tiểu thuyết "Các người con
của ông Gebalaawi" được đăng dần trên tờ nhật báo Al-Ahram vào năm 1959, các
nhà lãnh đạo của Trường Đại Học Al-Azhar là nơi trông coi về niềm tin và đạo
đức, đã kêu gọi chính quyền Ai Cập phải cấm đoán việc phổ biến cuốn truyện
kể trên và đã có các đám đông dân chúng xuống đường, biểu tình và la lối
phản đối trước tòa nhà cao tầng của tờ báo Al-Ahram.
Nhưng, lệnh cấm đoán của chính quyền
đã không được ban hành, việc đăng báo vẫn tiếp tục và cuốn tiểu thuyết của
nhà văn Mahfouz chỉ có thể xuất bản tại các nước ngoài. Trong bài xã luận
"Các Giới Hạn của Tự Do Ngôn Luận: Tản Văn và Văn Sĩ tại Ai Cập dưới thời
Nasser và Sadat" (The Limits of Freedom of Speech: Prose Literature and
Prose Writers in Egypt under Nasser and Sadat, Stockholm University, 1993),
tác giả Marina Stagh đã cho biết về một số liên lạc bí mật đằng sau tấn bi
kịch công luận này và đã có sự đồng ý giữa tác giả và chính quyền.
Năm 1988, nhà văn Salman Rushdie đã
cho xuất bản cuốn "Các Vần Thơ của Quỷ Satan" (The Satanic Verses) với ám
chỉ về nhà tiên tri Muhammad. Sự việc này đã khiến cho ông Salman Rushdie bị
các người Hồi Giáo thành tín lên án nặng nề và tác giả bị chính quyền Iran
kêu án tử hình.
Vốn là một tín đồ Hồi Giáo thuần
thành, với danh tiếng quốc tế, Văn Hào Naguib Mahfouz đã phải lên tiếng bênh
vực nhà văn Salman Rushdie và biện hộ cho sự tự do ngôn luận, coi đây là một
quyền linh thiêng của con người. Văn Hào Mahfouz đã viết: "Tôi kết án sự
quyết định của Giáo Chủ Khomeini đã lên án tử hình ông Salman Rushdie, tôi
coi đây là một vi phạm vào các liên lạc quốc tế và là một sự tấn công vào
Đạo Hồi. Đối với quyền tự do bày tỏ tư tưởng (freedom of expression), tôi
tin rằng phải coi đây là điều thiêng liêng (sacred) và tư tưởng chỉ có thể
sửa chữa bằng cách phản bác (counter-thought). Trong khi tranh luận, tôi ủng
hộ việc tẩy chay cuốn sách như là một phương tiện để duy trì sự bình yên xã
hội nhưng không thể dùng một quyết định làm một phương cách để giới hạn tư
tưởng".
Sự lên tiếng của Văn Hào Naguib
Mahfouz đã không dàn xếp được cuộc tranh chấp kể trên, các nghi ngờ và tức
giận vẫn không được xóa bỏ. Chính quyền Ai Cập vì thế đã đề nghị sự bảo vệ
tác giả Mahfouz nhưng văn hào này luôn từ chối, ông vẫn duy trì nếp sống
thường ngày tại thành phố Cairo.
Vào một ngày thuộc tháng 8 năm 1994, trên con đường đi tới quán cà phê Qasr
Al Nil quen thuộc, Văn Hào Naguib Mahfouz đã bị 2 tên côn đồ thuộc tổ chức
al-Jihad, dùng dao nhọn đâm vào cổ và bị thương nặng nhưng không bị mạng
vong. Cũng nhóm cuồng tín Jihad này đã ám sát Tổng Thống Sadat của Ai Cập.
Một số tiểu thuyết chính của Văn Hào
Naguib Mahfouz được kể như sau:
- Điều Nực Cười của Định Mệnh
(Ironies of Fate = Abath al-Agda, 1939).
- Ái Phi Radubis (Radubis, 1943).
- Cuộc Tranh Đấu của thành phố
Thebes (Kifah Tibah, 1944).
- Khu Lao Động Khan al-Khalili (Khan
al-Khalili, 1944).
- Cairo Mới (New Cairo = Al-Qahirah
al-Jadidah, 1946).
- Ngõ Midaq (Midaq Alley = Zuqaa
al-Midaqq, 1947).
- Ảo Ảnh (The Mirage = Al-Sarab,
1949).
- Đầu và Cuối (The Beginning and the
End = Bidayah wa-Nihayah, 1949).
- Ba Truyện Cairo (The Cairo Trilogy
= Al-Thulatiya, 1956-57).
- Các người con của Gebelaawi
(Children of Gebelaawi = Awlad haratina, 1959).
- Kẻ trộm và các con chó (The Thief
and the Dogs = Al-Liss wa-al-Kilag, 1961).
- Chim Cút Mùa Thu (Autumn Quail =
Al-Summan wa-Al-kharif, 1962).
- Cuộc Tìm Kiếm (The Search =
Al-Tariq, 1964).
- Kẻ Ăn Xin (The Beggar =
Al-Shahhadh, 1965).
- Phiêu bạt trên Giòng Sông Nile
(Adrift on the Nile = Thartharah fawq al Nil, 1966).
- Miramar (1967)
- Các tấm gương (Mirrors = Al
Maraya, 1971).
- Al-Hubb taht Al Matar (1973),
Al-Karnak (1974), Qualb al-Layl (1975).
- Ngài Đáng Kính (Respected Sir =
Hadrat al-Muhtaram, 1975).
- Các người Harafish (The Harafish =
Malhamat al-Harafish, 1977).
- Các Đêm và Ngày Ả Rập (Arabian
nights and days = Layali alf Laylah, 1981).
- Cuộc Hành Trình của Ibn Fatoume
(The Journey of Ibn Fatoume = Rihlat ibn Fattumah, 1983).
- Vua Akhenaten (Akhenaten, Dweller
in truth, 1985).
- Hadith al-Sabah wa-al-Masa (1987).
- Các tiếng vọng từ lời tự thuật
(Echoes from an autobiography).
Khi nghe được biết tin về Giải
Thưởng Nobel Văn Chương, nhà báo Mohamed Salmawy đã phỏng vấn Văn Hào Naguib
Mahfouz về tin vui này và ông Mahfouz đã nói:
Tôi cảm thấy cực kỳ sung
sướng cũng như ngạc nhiên hết sức. Tôi không bao giờ mong đợi đoạt được Giải
Thưởng này. Trong đời của tôi, Giải Thưởng Nobel đã được trao tặng cho các
nhà văn thuộc tầm vóc lớn như Anatole France, Bernard Shaw, Ernest Hemingway
và William Faulkner. Cũng có những vị như Jean-Paul Sartre và Albert Camus.
Tôi đã nghe nói rằng một nhà văn Ả Rập có thể vào một ngày nào đó đoạt được
Giải Thưởng Nobel nhưng tôi đã nghi ngờ điều này có thể xẩy ra.
Khi được hỏi về ảnh hưởng của Giải
Thưởng này đối với đời sống và công việc hậu quả, Văn Hào Naguib Mahfouz đã
nói: "Vâng, Giải Thưởng đã khuyến khích tôi tiếp tục viết... và tôi ưa thích
được làm việc trong sự bình yên".
Tài liệu tham khảo: Wikipedia.org., Britannica Encyclopedia.
Post a Comment