Phạm Văn Tuấn
6/ Tầu ngầm sau Thế Chiến Thứ Nhất.
Sau khi Thế Chiến chấm dứt, nước Anh chỉ theo đuổi một chương trình chế tạo
tầu ngầm rất giới hạn. Mãi tới năm 1929, Hải Quân Anh mới quyết định cho đóng
2 loại tầu ngầm kiểu S và kiểu T. Loại tầu ngầm kiểu S có sức chở nậng 735
tấn, dài 62 thước, có tầm hoạt động ngắn, xử dụng trong vùng Bắc Hải và phụ
cận, còn loại tầu ngầm kiểu T 1,300 tấn, dài 82 thước, dùng cho phạm vi đế
quốc Anh.
Về phía nước Đức, Hiệp Ước Versailles
đã giới hạn việc võ trang của quốc gia này nhưng vào năm 1935, Hitler đã ký
một thỏa ước hải quân với nước Anh và thỏa ước này cho phép nước Đức được đóng
50% tổng số tầu ngầm của nước Anh. Mặc dù thỏa ước trên ấn định số tầu ngầm
Đức lên tới mức giới hạn, mặc dù các bài học của kỳ Thế Chiến Thứ Nhất, nước
Đức không quan tâm mấy đến lực lượng tầu ngầm. Tính tới ngày Thế Chiến Thứ Hai
bùng nổ, nước Đức chỉ có 57 chiếc tiềm thủy đĩnh. Sở dĩ con số này quá bé nhỏ,
có thể vì Hitler không trù tính đánh nước Anh, hoặc vì các đô đốc hải quân Đức
đặt tin tưởng nhiều hơn vào các tầu chiến Scharnhorst và Gneisenau, hay vào
các con tầu khổng lồ Bismarck và Tirpitz.
Ngày 3 tháng 9 năm 1939, nước Anh tuyên
chiến với Đức Quốc Xã thì một chiếc tầu thủy của Anh tên là Athenia bị phát nổ
một cách bí mật và chìm sâu trong lòng biển. Người ta nghi ngờ con tầu Athenia
bị tầu ngầm U của Đức đánh chìm nhưng Đô Đốc Karl Doenitz đã phủ nhận sự việc
xẩy ra. Thực ra, một hạm trưởng trẻ tuổi chỉ huy một tầu ngầm U đã hành động
như vậy để chấm dứt các cuộc tranh luận về vấn đề đạo đức chiến tranh.
Ngày 5 tháng 9 năm đó, chiếc tầu ngầm U- 48 do Đại Úy Herbert Schultze chỉ
huy, nhận lãnh công tác thả thủy lôi tại miền phía tây biển Manche. Bỗng Đại
Úy Schulze nhìn thấy một vệt khói ở chân trời, về phía duyên hải Tô Cách Lan.
Tầu ngầm U- 48 liền đuổi theo và bắt kịp con tầu Royal Sceptre của nước Anh.
Lúc bấy giờ Đại Úy Schulze mới cho tầu nổi lên và dùng súng đại bác tấn công,
nhưng chiếc tầu Anh chưa chìm hẳn nên tầu ngầm U bèn phóng tiếp một thủy lôi.
Lần này con tầu Royal Sceptre nghiêng hẳn đi rồi từ từ chìm hẳn.
Hai tuần lễ sau, chiếc tầu ngầm U- 29
của Đức bắt gặp một hàng không mẫu hạm có nhiều khu trục hạm hộ tống, đang di
chuyển trên hải trình giữa nước Anh và Hoa Kỳ. Chiếc U- 29 tiến tới gần đoàn
tầu và phóng đi 3 trái thủy lôi rồi lặn mất. Ngày hôm sau, báo chí Anh loan
tin Anh Quốc bị thiệt hại chiếc HMS. Courageous, một trong các hàng không mẫu
hạm lớn nhất. Đây là chiến thắng quan trọng đầu tiên của Đức đoạt được trên
mặt biển vào năm 1939.
Đức Quốc còn ghi được nhiều thành tích
khác. Ngày 8 tháng 10 năm đó, Đại Úy Hải Quân Gunther Prien chỉ huy chiếc tầu
ngầm U- 47, nhận chỉ thị mật phải lặn vào căn cứ hải quân Anh Scapa Flow để
đánh chìm con tầu HMS. Royal Oak, chiếc tầu tối tân nhất và hùng mạnh nhất.
Nhiệm vụ này thực là khó khăn vì Scapa Flow được phòng thủ rất kỹ lưỡng, cả
trên đất liền lẫn dưới nước. Riêng tại lối vào hải cảng, đã có các tấm lưới
thép chắn tầu ngầm và những cửa này chỉ mở ra khi có tầu Anh qua lại. Vậy làm
sao tầu ngầm Đức có hy vọng lọt vào bên trong?
Vào năm 1923, 4 năm sau Thế Chiến Thứ
Nhất chấm dứt, Đại Úy Hải Quân Đức Alfred Wehring biệt tăm tại quê nhà rồi
xuất hiện tại Thụy Sĩ, làm một anh thợ học nghề đồng hồ. Năm 1927, Wehring lại
mất dạng ở Thụy Sĩ và tại hải đảo Orkney không xa căn cứ Scapa Flow, người ta
thấy có anh thợ đồng hồ người Thụy Sĩ Oertel. Năm 1932 Oertel trở nên công dân
Anh.
Khi chiến tranh bùng nổ, Oertel khám
phá thấy tại Kirk Sound, một lối phía đông dẫn vào căn cứ hải quân, không có
lưới ngăn tầu ngầm. Oertel liền báo tin này về Đức. Nhờ các chi tiết do
Wehring cung cấp, đêm 13 tháng 10, chiếc U- 47 đi qua ngả Kirk Sound và lặn
vào bên trong căn cứ Scapa Flow. Sau khi đã quan sát rõ mục tiêu, Đại Úy Prien
liền cho lệnh bắn thủy lôi vào con tầu chiến Repulse và 2 trái khác vào chiếc
Royal Oak, rồi tầu ngầm U- 47 bỏ chạy vì e sợ bị đuổi theo. Nhưng không có tầu
Anh nào săn đuổi cả, nên chiếc U- 47 liền quay lại và phóng thêm 3 thủy lôi
nữa vào chiếc Royal Oak. Lần này, đạn dược chứa bên trong tầu phát nổ, tung
lên không trung từng mảnh tầu, mảnh cột buồm, mảnh ống khói... Non nửa giờ
sau, chiếc U- 47 đã ra khỏi Scapa Flow rồi lặn xuống biển mất dạng.
Muốn thắng nước Anh, nước Đức phải làm
sao triệt hạ các con đường biển tiếp tế cho dân chúng Anh thực phẩm, súng đạn,
quần áo, thuốc men... Vì vậy nhiệm vụ chính của tầu ngầm U là đánh đắm mọi thứ
tầu biển đi vào quần đảo Anh Cát Lợi. Muốn hoàn thành nhiệm vụ này, nước Đức
cần tới rất nhiều tiềm thủy đĩnh. Nhiều loại tầu ngầm kiểu U được chế tạo cấp
tốc, từ loại 300 tấn như chiếc U- 48 tới loại Atlantic 770 tấn chứa 44 thủy
thủ và 19 thủy lôi. Ngoài ra còn một số ít tầu loại 1,700 tấn được dùng để
tiếp tế nhiên liệu hay thả mìn.
Trong các năm từ 1939 tới 1941, các tầu
ngầm Đức hầu như thắng thế tại khắp miền biển Đại Tây Dương. Ngay cả trên miền
Bắc Cực, tầu ngầm U cũng gây được các thành tích đáng kể. Vào năm 1942, một
đoàn tầu 33 chiếc chở đầy nhiên liệu chiến tranh di chuyển từ Hoa Kỳ tới
Murmansk, Liên Xô. Chính ngay tại vùng băng dương và mặc dù đoàn tầu trên có
hộ tống cẩn thận, các tầu ngầm Đức đã họp nhau lại và đánh chìm được 22 con
tầu tiếp tế. Sở dĩ người Đức ghi được các thành tích đặc biệt này bởi vì họ đã
chế tạo được một dụng cụ tối cần thiết cho tầu ngầm: dụng cụ hô hấp với tên
gọi là Schnorkel.
Tính tới ngày nước Đức đầu hàng vào năm
1945, tầu ngầm U đã đánh chìm được hơn 2,600 tầu buôn và 175 tầu chiến cùng
tầu ngầm của phe Đồng Minh. Ngược lại, với 1150 tầu ngầm U được chế tạo, nước
Đức đã bị thiệt hại 750 chiếc và 28,000 thủy thủ.
Vì nước Đức là một quốc gia nằm trên
đất liền nên vật liệu chiến tranh thường được chuyên chở bằng xe lửa. Người
Đức chỉ tiếp tế bằng đường biển cho Quân Đoàn Châu Phi do Thống Chế Rommel chỉ
huy. Vì thế các tầu ngầm Đồng Minh chỉ lập được thành tích tại Địa Trung Hải.
Về các chiến công của tầu ngầm Anh đoạt được trong kỳ Thế Chiến Thứ Hai, có
thể kể thành tích của chiếc tầu ngầm Unbroken.
Đầu tháng 8 năm 1942, Đại Úy Hải Quân Anh Alastair Mars và thủy thủ đoàn trên
chiếc tiềm thủy đĩnh Unbroken nhận lệnh túc trực ngoài khơi nước Ý. Tầu
Unbroken tới một địa điểm ấn định giữa Paola và Longobardi rồi về ban đêm, tầu
nổi lên cách bờ một cây số rưỡi và chờ đợi. Khi thấy đoàn xe lửa chạy dọc theo
ven biển, tầu Unbroken đã dùng đại bác tiêu diệt đoàn xe và làm cho 14,000 tấn
đồ tiếp tế không tới được tay Quân Đoàn Châu Phi. Lúc trở về tầu Unbroken bị
truy kích ác liệt ở cách mỏm Milazzo vài dậm. Cuối cùng tầu ngầm này cũng
thoát hiểm.
Tới 7 giờ 30 sáng ngày 3 tháng 8, Đại
Úy Mars lại trông thấy 4 tuần dương hạm Ý và 8 khu trục hạm có 2 phi cơ dò tầu
ngầm hộ tống, đang di chuyển ở đằng xa. Đại Úy Mars liền cho tầu lặn xuống 15
thước sâu rồi tiến thẳng về phía đoàn tầu Ý. Khi chiếc khu trục hạm cuối cùng
vừa qua khỏi, chiếc Unbroken liền phóng 4 thủy lôi rồi lặn xuống đáy biển lẩn
trốn. Mặc dù trong 1 giờ 30 phút, các khu trục hạm Ý đã thả xuống biển 105
thủy bộc pha (depth charge), chiếc Unbroken vẫn vô hại.
Ngày hôm đó, Đại Úy Mars đã bắn một
thủy lôi trúng vào ngăn chứa nhiên liệu của chiếc tuần dương hạm Bolzano và
một thủy lôi khác vào mũi tuần dương hạm Muzio Attendola. Chiếc Bolzano bị
phát hỏa nên phải kéo về căn cứ hải quân Spezia sửa chữa, rồi bị người nhái
đánh chìm, còn chiếc Muzio Attendola ì ạch chạy về căn cứ Messine, sau đó được
di chuyển sang Naples và tại nơi đây, nó đã bị oanh tạc cơ Hoa Kỳ phá hủy. Với
một loạt đạn, Đại Úy Mars đã ghi được một kỷ lục.
7/ Người Nhái và loại tầu ngầm nhỏ.
Nếu người Đức nổi danh về cách xử dụng tầu ngầm thì nước Ý là nước đầu tiên
thành công về chiến thuật người nhái và loại tầu ngầm nhỏ (Midget).
Vào năm 1935 khi Đô Đốc Karl Doenitz
tái lập lực lượng tầu ngầm U tại nước Đức thì tại nước Ý, hai sĩ quan Hải Quân
đã thuyết phục được chính phủ chế tạo một thứ võ khí khác xử dụng ngầm dưới
biển. Thứ võ khí mới này là một loại thủy lôi, dài chừng 6 thước, đầu gắn một
khối 250 kilô thuốc nổ, dùng động cơ điện và ở trên có lắp yên cho hai thủy
thủ ngồi. Nhờ loại tầu ngầm nhỏ này, người thủy thủ lặn tới mục tiêu, gài khối
chất nổ dưới đáy tầu địch rồi lặn trở ra. Một bộ phận đồng hồ khiến cho khối
chất nổ công phá theo thời định.
|
Người Nhái của Ý |
Năm 1938 khi nước Ý xâm chiếm xứ Ethiopie, Hải Quân Ý đã cho chế tạo rất nhiều
loại tầu ngầm nhỏ kể trên. Lúc đầu loại tầu ngầm này đã gây ra rất nhiều tai
nạn thê thảm nên được thủy thủ Ý gọi tên là “heo biển” (sea swine). Việc xử
dụng các con “heo biển” này lại là một kỹ thuật khó khăn. Người thủy thủ phải
mặc một bộ quần áo lặn bằng cao su để giữ ấm nhiệt độ thân thể và tránh cho
lớp da khỏi bị sây sát. Anh ta lại phải đeo chiếc mặt nạ và thở bằng khí
oxygen ép. Muốn di chuyển nhanh chóng và dễ dàng trong nước, người thủy thủ
còn cần tới đôi chân vịt bằng cao su. Mặc bộ đồ như vậy, người thủy thủ trông
giống như một con nhái, vì thế mới có danh từ “người nhái”.
Không những người nhái gặp phải nhiều
nguy hiểm vì loại tầu ngầm và vì các võ khí của địch mà còn vì chính nơi biển
cả. Con người sinh ra trên mặt đất đã được Tạo Hóa ban cho cơ thể chịu đựng
được áp suất của không khí tới cao độ 3,000 thước. Tại nơi bờ biển, áp suất
này là một atmosphère và như vậy một người trung bình chịu một áp lực trên
thân thể là 16 tấn, nhưng không ai cảm thấy áp lực này vì ở bên trong cơ thể
con người, cũng có một áp lực tương đương làm cân bằng áp lực bên ngoài. Nếu
con người lặn xuống dưới nước, áp suất bên ngoài tăng lên trong khi áp suất
bên trong vẫn không thay đổi. Nếu lặn xuống 10 thước sâu, áp suất bên ngoài sẽ
gấp đôi và các cơ quan trong người bị ảnh hưởng. Áp suất ở độ sâu 20 thước
trong nước biển làm cho màng nhĩ bị vỡ, ở độ sâu 40 thước, máu trong huyết
quản và trong tim ngưng lưu thông, vì vậy không ai có thể lặn sâu quá 40 thước
trừ khi có đủ dụng cụ đặc biệt.
Ngoài nguy hiểm về áp suất của nước
biển, người nhái còn bị nhiễm độc khi thở bằng khí ép. Ở trên mặt đất, con
người thở ngay ra khí nitrogen nhưng khi lặn xuống nước, khí nitrogen đó lại
tan vào máu. Sự việc này không làm cho người lặn cảm thấy khó chịu nhưng nếu
người đó nổi lên mặt nước quá nhanh, khí nitrogen sẽ tạo thành các bọt khí
trong máu và các bọt này là nguyên nhân của chứng co rút bắt thịt và tê liệt.
Vào thời chiến, các người nhái ít khi có đủ hoàn cảnh thuận tiện để kiểm soát
tốc độ nổi lên mặt nước và vì vậy, tổn thất của người nhái rất cao.
Tới ngày Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, Hải
Quân Ý đã tổ chức được nhiều đơn vị người nhái và các đội “heo biển” sẵn sàng
hành động vào khoảng cuối năm 1941. Chập tối ngày 18 tháng 12 năm này, Đại Úy
Hải Quân Ý Luigi De La Penne và Trung Sĩ Petty Officer Bianchi đáp tầu ngầm
Scire đi về phía bờ biển Ai Cập, hai người này nhận lãnh công tác phá hoại hai
chiến hạm Anh là HMS. Valiant và HMS. Queen Elizabeth đang bỏ neo trong hải
cảng Alexandria.
Lúc 20 giờ 30 khi còn cách lối vào hải
cảng chừng một dậm, họ rời khỏi tầu ngầm rồi leo lên một con “heo biển”. Trong
công tác này, có 2 con “heo biển” khác trợ giúp. Đêm hôm đó, trời tối như mực,
3 chiếc tầu ngầm Ý này di chuyển từ từ vào hải cảng, vừa tìm lối đi, vừa phân
tán và ẩn nấp khi gặp các tầu thả thủy bộc pha (depth charge) để chống tầu
ngầm. Cuối cùng hai người nhái Ý cũng tới sát được chiếc lưới thép chắn tầu
ngầm. De La Penne nhô lên khỏi mặt nước và quan sát, ông ta gặp may vì tới
đúng lúc có tầu trở về bến và may mắn hơn nữa, lại có 3 chiếc tầu liên tiếp.
Con “heo biển” liền bơi theo chiếc tầu thứ nhất vào trong hải cảng.
Sau khi đặt xong khối chất nổ dưới đáy con tầu HMS. Valiant, Đại Úy De La
Penne không tìm thấy Bianchi đâu cả. Quá mệt nhọc vì công tác, Đại Úy De La
Penne liền ngoi lên mặt nước để nghỉ, thì thấy Bianchi bị bất tỉnh gần đó. Rồi
cả hai người bị bắt và bị tra tấn, nhưng Bianchi không biết chỗ đặt chất nổ
còn Đại Úy De La Penne lại không chịu tiết lộ, nên bị nhốt ngay dưới hầm tầu.
Đúng 6 giờ 15, con tầu HMS. Valiant chòng chành rồi chìm xuống đáy biển. Một
lúc sau, tiếng nổ thứ hai đã đánh đắm chiến hạm HMS. Queen Elizabeth và một
chiếc tầu dầu lớn khác cũng bị tổn hại nặng nề sau tiếng nổ thứ ba.
Với 6 người bị bắt, Hải Quân Ý đã đánh
đắm 2 chiến hạm Anh và gây thiệt hại cho nhiều chiếc khác. Đây là một cuộc phá
hoại rẻ nhất và có hiệu quả nhất trong suốt cuộc Thế Chiến Thứ Hai. Với chiến
thuật người nhái, Hải Quân Ý còn tấn công nhiều lần tại eo biển Gibraltar.
Thứ “heo biển” cũng được người Anh chế
tạo và đặt tên là “Chariot” (xe cút kít) và xử dụng vào mục tiêu phá hoại để
báo thù cho sự tổn thất tại hải cảng Alexandria. Vào năm 1943, Đại Úy Hải Quân
Anh R. Greenland nhận chỉ thị phải lặn vào hải cảng Palerme để phá hoại Hạm
Đội của Phát Xít Ý. Con tầu ngầm Thunderbolt đã đưa Đại Úy Greenland và đoàn
người nhái tới gần mục tiêu rồi nhóm người này dùng tầu ngầm “xe cút kít” để
đi nốt quãng đường còn lại. Các người nhái Anh đã đặt một khối chất nổ dưới
đáy tuần dương hạm Ulpio Traiano, một khối khác cạnh 3 thiết giáp hạm Ý và gắn
khối sau cùng vào vỏ một con tầu chở hàng. Lúc xong công tác và ra về, địa bàn
của những người nhái Anh bị hư hỏng vì vậy, khi không tìm lại được con tầu
Thunderbolt, họ phải trở lên bờ, chôn quần áo lặn rồi tìm đường bộ lẩn trốn.
Mấy ngày sau họ bị bắt sau khi đã loại ra khỏi vòng chiến các con tầu bị đặt
chất nổ.
|
X-24, chiếc X Craft duy nhất còn giữ được |
Trong Thế Chiến Thứ Hai, ngoài loại
tầu ngầm Chariot, Hải Quân Anh còn chế tạo thứ tầu ngầm loại nhỏ với danh hiệu
tầu ngầm X (X Craft). Loại tầu ngầm X dài 15 thước, chứa 3 hoặc 4 thủy thủ,
không mang thủy lôi vì thủy lôi vào thời kỳ này khi phóng đi thường có các bọt
khí nên dễ bị khám phá. Tầu ngầm X chỉ mang theo 2 khối chất nổ và chỉ được xử
dụng ngầm dưới các hải cảng và phá các mục tiêu mà các tầu ngầm thông thường
hay các tầu chiến không thể tấn công được. Theo lý thuyết, tầu ngầm X có thể ở
lâu dưới nước được nhiều nhất là 36 giờ và cần phải dùng một tầu ngầm khác kéo
tầu X tới vùng hoạt động.
Thời bấy giờ, các đoàn tầu của phe
Đồng Minh chở đồ tiếp tế cho Liên Xô thường bị chiến hạm Tirpitz của Đức tấn
công. Tirpitz là con tầu có vỏ thép rất dày, vận tốc lớn, lại có các khẩu đại
bác 15 inches (hơn 380 mm), nên đã bắn chìm rất nhiều tầu chiến, tầu chở hàng
khác và đã gây ra nhiều tổn thất về nhân mạng.
Vào tháng 9 năm 1943, chiến hạm Tirpitz thường ẩn náu trong vịnh Kaal Fjord,
thuộc xứ Na Uy, là nơi khó tấn công bằng không lực vì địa thế hiểm trở, vì lực
lượng pháo binh phòng không của Đức rất hùng hậu. Ngoài ra ở ngoài biển còn có
các bãi mìn, các lưới ngăn tầu ngầm và chống thủy lôi, các đoàn tầu tuần tiễu…
Trước mục tiêu đặc biệt này, các tầu ngầm X được giao phó công tác phá hủy. Có
6 chiếc tham dự chiến dịch là X- 5, X- 6, X- 7, X- 8, X- 9 và X- 10, mỗi chiếc
được một tầu ngầm lớn kéo đi qua Bắc Hải (Mer du Nord).
Ngày 11 tháng 9 năm 1943, đoàn tầu ra
đi từ Loch Cairnbawn tại Scotland, ban ngày lặn chậm chạp dưới 5 thước sâu và
nổi lên mặt nước vào ban đêm để di chuyển với vận tốc 9 hải lý một giờ. Lúc đi
đường, các trắc trở bắt đầu xẩy ra. Đầu tiên, tầu X- 8 bị đứt dây kéo. Sau 36
giờ, nó mới theo kịp đoàn tầu thì đáy lại bị thủng, các thủy thủ phải bỏ sang
tầu khác. Như vậy còn lại 5 chiếc theo đuổi công tác. Chiếc X- 9 được tầu ngầm
Syrtis kéo đi, rồi bị đứt dây giữa đường, toán thủy thủ bị ghi nhận mất tích.
Chiếc X- 10 được lệnh tấn công tầu chiến Scharnhorst. Ngày 20/9, nó lọt được
vào trong vịnh, nhưng rồi lại bị trục trặc máy móc và bị dò nước, khiến cho dự
định phải bỏ dở. Chiếc X- 5 có nhiệm vụ phá hoại con tầu Tirpitz, ngày 19 tầu
X- 5 bị lạc vào bãi mìn rồi không ai trông thấy nó nữa.
Khi đó chỉ có 2 chiếc tầu ngầm X tiếp
tục kế hoạch. Chiếc X- 6 do Đại Úy Donald Cameron chỉ huy, đã lặn được vào
vùng mục tiêu ngày 19 nhưng khi còn cách tầu địch 80 thước, nó bị khám phá
nhưng Đại Úy Cameron đã thả được 4 tấn chất nổ dưới đáy tầu địch trước khi ông
cùng toán thủy thủ bị bắt. Chiếc tầu ngầm cuối cùng là X- 7 do Đại Úy Hải Quân
Georfrey Place chỉ huy, cũng tới được mục tiêu là chiến hạm Tirpitz và đã thả
được khối chất nổ dưới vỏ tầu Đức. Khi rút lui, tầu X- 7 bị thủy bộc pha làm
tổn hại và Đại Úy Place phải bỏ tầu và bơi ra ngoài với một thủy thủ.
Đúng 7 giờ 40 ngày 20/9, khối chất nổ đầu tiên công phá rồi nửa giờ sau, tiếng
nổ thứ hai làm cho tầu chòng chành. Tuy nhiên chiến hạm Tirpitz không bị tổn
hại nặng nhờ vỏ tầu được đóng bằng thứ thép dày. Dù sao các tầu ngầm X của
nước Anh cũng làm cho chiến hạm Đức phải sửa chữa trong nhiều tháng và Hải
Quân Đức phải tốn thêm hàng ngàn người để bảo vệ con tầu khổng lồ này.
Tại mặt trận Thái Bình Dương, các oanh
tạc cơ của Nhật Bản đã thực hiện cuộc tấn công Trân Châu Cảng trong khi tầu
ngầm của Nhật không ghi được các thành tích nào đáng kể và nếu tại vài nơi
khác, người Nhật đã thành công nhờ tầu ngầm thì những kết quả này đều do lòng
cam đảm của quân đội Phù Tang hơn là do thứ võ khí. Tới khi bị phản công lại,
người Nhật đã phải dùng tầu ngầm để chở thực phẩm và đạn dược vì trên không
cũng như trên mặt biển, lực lượng Đồng Minh đã làm chủ tình thế.
|
Sau khi đầu hàng, khoảng 80 tàu ngầm nhỏ của Nhật còn nằm trong xưởng đóng tàu |
Khi hoàn cảnh trở nên tuyệt vọng, Hải
Quân Nhật đã dùng tới một loại tầu thủy lôi có tên là Kaiten và thủy thủ của
thứ tầu này có nhiệm vụ phải hy sinh tính mạng nơi biển cả cũng như các phi
công của đội Thần Phong. Hành động quyết tử này đã được chấm dứt sớm hơn khi
hai quả bom nguyên tử được thả xuống Hiroshima và Nagasaki. Vào ngày tiếng
súng ngừng nổ, người ta đã thấy còn hàng trăm chiếc tầu ngầm Kaiten và máy bay
Kamikazé (Thần Phong) tại các cơ xưởng đóng tầu và chế tạo máy bay.
Về phía Hoa Kỳ, tầu ngầm Mỹ không đánh
đắm được nhiều chiến hạm Nhật vì khi đó, Hoa Kỳ còn dùng tầu ngầm loại S. Tuy
nhiên, nhờ tầu ngầm USS. Swordfish của Hoa Kỳ, Tổng Thống Manuel Quezon và các
nhân viên trong chính phủ Phi Luật Tân đã đi lánh nạn trước khi quân Nhật tràn
tới. Cũng nhờ tầu ngầm Mỹ, số vàng của Phi Luật Tân đã được di chuyển sang
châu Úc.
8/ Tầu Ngầm Nguyên Tử Nautilus.
Sau khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt,
các chiến công do tầu ngầm lập nên đã khiến cho các nhà chiến thuật có các
quan niệm mới về chiến tranh trên biển. Rồi việc chinh phục được năng lực
nguyên tử làm cho các thẩm quyền Hải Quân Hoa Kỳ cũng muốn thứ năng lực vô
biên này được áp dụng vào tiềm thủy đĩnh. Bộ Hải Quân Hoa Kỳ liền yêu cầu Ủy
Ban Nguyên Tử Năng (The Atomic Energy Commission) nghiên cứu chế tạo cho Hải
Quân thứ lò nguyên tử (reactor) cần thiết. Cuối cùng vào năm 1949, tại Phòng
Thí Nghiệm Bettis gần Pittsburgh thuộc tiểu bang Pennsylvania, công việc
nghiên cứu được thực hiện.
Năm 1950 Quốc Hội Hoa Kỳ bỏ thăm chấp
thuận việc chế tạo chiếc tầu ngầm nguyên tử đầu tiên. Ngày 14 tháng 6 năm
1952, Tổng Thống Harry Truman tới Groton, Connecticut, dự lễ khởi công đóng
chiếc tầu ngầm nguyên tử Nautilus. Đây là chiếc tầu ngầm đầu tiên của Thế Giới
được thực hiện theo quan niệm dự tưởng của Jules Verne.
|
USS Nautilus trong chuyến hải hành đầu tiên, ngày 20 tháng 1 năm 1955 |
Vào thời kỳ này, Nautilus là chiếc tầu
ngầm lớn nhất. Nó chứa 100 thủy thủ và có thể lặn rất lâu dưới biển mà không
cần tiếp tế nhiên liệu. Tháng 8 năm 1957, tầu Nautilus được giao phó nhiệm vụ
lặn dưới các tảng băng tại Bắc Cực nhưng bị thất bại. Tháng 6 năm 1958, Trung
Tá Hải Quân William R. Anderson lại chỉ huy tầu ngầm Nautilus bơi ngầm dưới
Bắc Cực, bắt đầu từ phía Thái Bình Dương. Lần ra đi này cũng gặp thất bại vì
máy móc bị hư hỏng.
Ngày 22 tháng 7 năm 1958, Trung Tá Anderson một lần nữa ra đi từ Trân Châu
Cảng. Cuộc hành trình được giữ kín vì Hải Quân Mỹ không muốn bị chế riễu khi
gặp thất bại lần nữa. Sau nhiều ngày tìm đường bằng cách xử dụng các máy móc
tối tân, tầu ngầm Nautilus đã tới Bắc Cực vào lúc 23 giờ 15 ngày 3 tháng 8 năm
1958. Hai ngày sau, tầu Nautilus đã ra tới Đại Tây Dương.
Nhờ cuộc thám hiểm của tầu ngầm
Nautilus và các chi tiết khác do chiếc tầu ngầm nguyên tử Skate thu lượm, các
nhà hải dương học đã tìm ra một con đường đi qua Bắc Cực, khiến cho quãng
đường từ London tới Tokyo trước kia là 11,200 hải lý, nay chỉ còn là 6,500 hải
lý khi băng qua đỉnh của Địa Cầu.
Ngoài các tầu ngầm Nautilus, Skate,
Hoa Kỳ còn chế tạo thêm các tầu ngầm nguyên tử khác, chẳng hạn như những chiếc
George Washington, Seawolf, Skipjack, Patrick Henry… Với các hỏa tiễn Polaris
mang đầu đạn nguyên tử, ngày nay tầu ngầm chạy bằng năng lực nguyên tử đã trở
nên một thứ khí giới đáng sợ nhất bởi vì không ai biết nó ở chỗ nào, trong khi
tầu ngầm có thể tấn công bất cứ mục tiêu nào trên trái đất bằng một hỏa lực
mạnh hơn tổng số các bom đạn được xử dụng trong kỳ Thế Chiến Thứ
Hai.
Phạm Văn Tuấn
Tài liệu tham khảo: Wikipedia.org., Britannica Encyclopedia, Edwin P. Hoyt,
From the Turtle to the Nautilus, Little Brown & Co., Boston, 1963.
Post a Comment