|
D'Artagnan, Athos, Aramis, và Porthos
Tranh của Maurice Leloir |
Alexandre Dumas tên thật là Dumas Davy de la Pailleterie và còn được gọi là
Alexandre Duma “Cha”, là một nhà văn danh tiếng viết tiểu thuyết lịch sử của
nước Pháp.
Alexandre Dumas là một trong các nhà văn Pháp có các tác phẩm được ưa chuộng
nhất trên thế giới. Các các phẩm của ông đã được phiên dịch sang gần 100 ngôn
ngữ khác nhau. Nhiều tiểu thuyết lịch sử của Alexandre Dumas được tác giả viết
thành các bài báo xuất bản định kỳ, gồm có các truyện: Bá Tước Monte Cristo
(The Count of Monte Cristo), Ba Chàng Lính Ngự Lâm (The Three Musketeers), Hai
Mươi Năm Sau (Twenty Years Later) và Tử Tước Bragelonne: Mười Năm Sau (The
Vicomte of Bragelonne: Ten Years Later).
Từ đầu thế kỷ 20, các tiểu thuyết của
Alexandre Dumas đã được dựng thành gần 200 truyện phim. Cuốn tiểu thuyết cuối
cùng của ông có tên là “Người Hiệp Sĩ của Sainte-Hermine (The Knight of
Sainte-Hermine) chưa được hoàn thành khi ông qua đời nhưng đã được học giả
Claude Schopp viết tiếp và xuất bản vào năm 2005, rồi được phổ biến bằng tiếng
Anh vào năm 2008 với tên là Người Kỵ Sĩ Cuối Cùng (The Last Cavelier), cuốn
tiểu thuyết này cũng trở nên một cuốn truyện bán chạy nhất (a best seller).
Là nhà văn phong phú về nhiều thể loại,
Alexandre Dumas bắt đầu viết các vở kịch và thứ nghệ thuật này ngay từ đầu đã
thành công. Ông còn viết nhiều bài báo cho các tạp chí và các sách du lịch.
Các tác phẩm của Alexandre Dumas tổng cộng tới 100 ngàn trang. Vào năm 1840,
Alexandre Dumas thành lập Rạp Hát Lịch Sử (The Theatre Historique) tại thành
phố Paris.
Cha của Alexandre Dumas là vị Tướng
Thomas Alexandre Davy de la Pailleterie, đã ra đời tại Saint-Domingue, thời đó
là một thuộc địa của nước Pháp và ngày nay là hòn đảo Haiti. Tướng Thomas này
là con trai của nhà quý tộc Alexandre Antoine Davy de la Pailleterie
người Pháp và bà Maria Cessette Dumas, người đàn bà nô lệ châu Phi. Vào tuổi
14, ông Thomas được cha đưa về nước Pháp, tại nơi này ông được giáo dục tại
một Viện Hàn Lâm Quân Sự rồi gia nhập quân đội bởi vì đây là một nghề nghiệp
danh tiếng.
Nhờ cha thuộc về giới quý tộc nên cậu
Alexandre đã được quen thân với ông Hoàng Louis Philippe, Bá Tước của miền
Orleans (Duke of Orleans). Về sau, Alexandre Dumas theo nghề nhà văn và đã sớm
thành công. Vài thập niên sau này khi ông Hoàng Louis Napoleon Bonaparte được
bầu lên làm Vua của nước Pháp vào năm 1851, Alexandre Dumas bị thất sủng nên
phải rời nước Pháp và đi sang nước Bỉ, lưu trú trong vài năm rồi sang nước
Nga, cũng cư ngụ vài năm tại nước Nga và sau cùng ông sang nước Ý. Vào năm
1861, Alexandre Dumas lập nên tờ báo Độc Lập (L’Indipendente) với chủ trương
cổ võ cho sự thống nhất của nước Ý. Năm 1864, Alexandre Dumas trở về thành phố
Paris.
Mặc dù đã lập gia đình nhưng theo
truyền thống của giới thượng lưu Pháp, Alexandre Dumas đã có rất nhiều người
tình, có lẽ có tới 40 cô. Trong thời gian còn sinh sống, ông đã có ít nhất 4
đứa con không chính thức hay con tự nhiên (natural children). Một trong các
người con của Alexandre Dumas Cha là Alexandre Dumas “Con”, cũng là một tiểu
thuyết gia kiêm nhà viết kịch thành công. Trong số các người tình, Alexandre
Dumas Cha vào năm 1866 đã thân thiết với cô Adah Isaacs Menken, một nữ diễn
viên người Mỹ nổi tiếng và có tuổi đời bằng nửa số tuổi của Alexandre Dumas.
Nhà viết kịch người Anh tên là Watts
Phillips đã quen biết Alexandre Dumas Cha khi ông đã cao tuổi, đã mô tả
Alexandre Dumas là
"một con người rất rộng lượng, rất vui vẻ nhưng cũng rất tự mãn. Tiếng nói
của ông ta thì như tiếng cối xay gió, khi ông ta đã lên tiếng thì không
ngừng nghỉ, nhất là khi nói về chính ông ta".
I/ Cuộc đời của Nhà Văn Alexandre Dumas.
Alexandre Dumas Cha, hay Alexandre Davy de la Pailleterie, ra chào đời vào năm
1802 tại Villiers Cotterets trong tỉnh Aisne thuộc miền Picardy của nước Pháp.
Alexandre Dumas có 2 người chị tên là Marie Alexandrine (sinh năm 1794) và
Louise Alexandrine (sinh 1796, chết 1797). Cha mẹ của Alexandre Dumas là ông
Thomas Alexandre Dumas và bà Marie Louise Elizabeth Labouret, con gái của một
chủ quán trọ.
Ông Thomas Alexandre ra đời tại một hòn
đảo, thuộc địa của nước Pháp, là Saint Domingue, ngày nay là xứ Haiti, là đứa
con tự nhiên (a natural son) của Hầu Tước Alexandre Antoine Davy de la
Pailleterie, một nhà quý tộc người Pháp và là Tướng Ủy Viên (général
commissaire) của ngành Pháo Binh thuộc địa, và bà Marie Cessette Dumas (có một số tài liệu ghi tên gọi là Louise), một
người nô lệ có tổ tiên thuộc châu Phi và miền Caribbean. Vào thời gian ông
Thomas Alexandre ra đời, cha của ông ta đã bị nghèo đi.
Khi còn niên thiếu, ông Thomas
Alexandre được cha đưa về nước Pháp, được giáo dục trong một trường quân sự và
theo binh nghiệp khi còn là một thanh niên. Khi tới tuổi trưởng thành, ông
Thomas dùng tên của người mẹ là Dumas để làm “họ” sau khi cách ly với người
cha. Ông Thomas được vinh thăng Thiếu Tướng vào tuổi 31, là người châu Phi
miền Antilles đầu tiên lên tới bậc cao cấp đó trong Quân Đội Pháp. Ông đã phục
vụ xuất sắc trong các cuộc chiến tranh Cách Mạng Pháp và cũng là Tướng Chỉ Huy
của Đạo Quân Pyrénées, là người da màu đầu tiên đạt được danh vọng đó.
|
Tướng Thomas Alexandre
|
Mặc dù là một vị Tướng của Hoàng Đế Napoléon trong các chiến dịch tại nước Ý
và tại xứ Ai Cập, ông Thomas Alexandre đã bị thất sủng vào năm 1800, phải quay
trở về nước Pháp. Trên đường biển về nước, con tầu của ông Thomas bị bắt tại
Taranto thuộc Vương Quốc Naples, tại nơi này, ông và các người khác bị giữ làm
tù binh.
Ông Thomas Alexandre qua đời vì bệnh ung thư vào năm 1806 khi cậu Alexandre
Dumas mới được 4 tuổi. Bà vợ góa của ông, bà Marie Cessette Dumas đã không thể cung
cấp nền học vấn đầy đủ cho Alexandre Dumas nhưng cậu Dumas khi đó đã tự đọc
rất nhiều sách và tự học tiếng Tây Ban Nha. Mặc dù nghèo, gia đình Dumas này
đã thừa hưởng danh tiếng đặc biệt và giai cấp quý tộc của người cha, tất cả
những thứ này đã giúp cho các người con tiến bộ trong xã hội.
Vào năm 1822, sau khi chế độ Quân Chủ
Pháp được phục hồi, Alexandre Dumas vào tuổi 20, đã trở về thành phố Paris và
đã có việc làm tại Lâu Đài Hoàng Gia (Palais Royal), trong văn phòng của Bá
Tước miền Orléans là ông Hoàng Louis Philippe.
II/ Nghề viết văn.
Trong khi làm việc cho ông Louis Philippe, Alexandre Dumas bắt đầu viết các
bài báo cho vài tạp chí và các vở kịch cho rạp hát. Vào thời gian này, Ông
Alexandre cũng dùng họ Dumas là họ của bà ngoại, giống như cách làm của người
cha. Vở kịch đầu tiên của Alexandre Dumas có tên là “Vua Henry III và Triều
Đình” (Henry III and His Courts) được viết ra vào năm 1829 khi ông mới 27 tuổi
và vở kịch này đã được mọi người ca ngợi. Vào năm sau, vở kịch thứ hai tên là
Christine cũng thành công nhờ vậy Alexandre Dumas có đủ lợi tức để theo đuổi
nghề viết văn toàn thời gian.
|
Vua Louis Philippe
|
Vào năm 1830, Alexandre Dumas đã tham dự vào cuộc cách mạng để lật đổ Vua
Charles X, thay thế bằng Bá Tước Orléans, tức là Vua Louis Philippe, là ông
chủ cũ của Alexandre Dumas.
Vào giữa thập niên 1830, đời sống tại
nước Pháp thì ổn định với các cuộc xáo trộn rời rạc bởi các người Cộng Hòa tức
giận và bởi các công nhân thành thị bị nghèo khó đi, họ đang đòi hỏi các thay
đổi. Nhưng rồi cuộc sống cũng trở lại bình thường và xứ sở Pháp dần dần được
kỹ nghệ hóa. Nền kinh tế được cải thiện cộng với việc chấm dứt kiểm duyệt báo
chí khiến cho hoàn cảnh viết văn của Alexandre Dumas được dễ dàng hơn.
Sau khi thành công về vài vở kịch tiếp
theo, Alexandre Dumas chuyển sang việc viết tiểu thuyết. Vào năm 1838.
Alexandre Dumas viết cuốn tiểu thuyết “Đại Úy Paul” (Le Capitaine Paul), cuốn
truyện này được đăng thành nhiều kỳ trên các báo chí.
Từ năm 1839 tới năm 1841, với sự giúp đỡ của nhiều bạn bè, Alexandre Dumas đã
biên soạn bộ sách “Các Tội Ác Nổi Tiếng” (Celebrated Crimes), gồm 8 tập sách,
viết về các tội ác và các kẻ phạm tội trong lịch sử của châu Âu. Ông đã đề cập
tới các kẻ ác nổi tiếng như Beatrice Cenci, Martin Guerre, Cesare và Lucrazia
Borgia, cũng như các kẻ giết người như Karl Ludwig Sand và Antoine Francois
Desrues là hai kẻ ác đã bị hành quyết.
Alexandre Dumas đã cộng tác với ông
thầy dạy đấu kiếm tên là Augustin Grisier để viết ra cuốn tiểu thuyết “Thầy
Dạy Kiếm” (The Fencing Master) vào năm 1840. Cuốn truyện này mô tả ông Grisier
đã chứng kiến các biến cố của cuộc Nổi Dậy Tháng Chạp (The Decembrist Revolt)
tại nước Nga. Sau đó, cuốn tiểu thuyết này bị cấm đọc tại nước Nga bởi Sa
Hoàng Nicholas I và ông Alexandre Dumas bị cấm vào nước Nga cho tới khi Sa
Hoàng qua đời. Alexandre Dumas đã đề cập một cách rất kính trọng tới ông
Grisier trong các hồi ký, trong 2 tác phẩm “Bá Tước Monte Cristo” (The Count
of Monte Cristo) và “Các Người Anh Em Đảo Corse” (The Corsican
Brothers).
Alexandre Dumas đã phụ thuộc vào rất
nhiều người cộng tác và giúp đỡ trong số này có ông Auguste Maquet được nhiều
người biết tới nhất. Phải tới gần cuối thế kỷ 20 thì vai trò của ông Maquet
mới được nhiều người hiểu rõ. Ông Maquet là người đã phác họa nội dung của
cuốn truyện “Bá Tước Monte Cristo” (The Count of Monte Cristo) và đã đóng góp
rất nhiều cho cuốn “Ba Chàng Lính Ngự Lâm” (The Three Musketeers) cũng như cho
nhiều tiểu thuyết khác của Alexandre Dumas. Phương pháp làm việc của hai người
này là ông Maquet đề nghị các cốt truyện (plots) và viết sơ sài rồi Alexandre
Dumas thêm vào các chi tiết, các đối thoại và các kết luận sau cùng. Ông
Maquet đã kiện Alexandre Dumas ra tòa để được chấp nhận phần tác giả và đòi
hỏi trả công sức cao hơn, ông ta đã thành công về tiền bạc nhưng không được
phần tác giả.
Các cuốn tiểu thuyết của Alexandre
Dumas đã được phổ biến rất rộng rãi khiến cho chẳng bao lâu, các tác phẩm này
đã được dịch sang tiếng Anh và các ngôn ngữ khác. Nhờ tài viết văn, Alexandre
Dumas đã kiếm ra được rất nhiều tiền bạc nhưng ông thường bị vỡ nợ bởi vì ông
Dumas đã chi tiêu quá rộng rãi về đàn bà và do cuộc sống sa hoa. Các học giả
đã tìm thấy rằng ông có tới 40 cô nhân tình.
|
Lâu đài Monte Cristo
|
Vào năm 1846, Alexandre Dumas đã cho xây dựng bên ngoài thành phố Paris, tại
Le Port-Marly tòa lâu đài Monte Cristo rộng lớn với tòa nhà lớn phụ thêm, dành
cho việc viết văn. Tại tòa nhà này, thường có các người quen, các người lạ đến
ăn ở lâu ngày, họ đã lợi dụng tấm lòng hào phóng của ông Dumas. Hai năm sau,
do các khó khăn tài chính, Alexandre Dumas đã phải bán đi toàn bộ tài sản.
Alexandre Dumas đã viết văn theo nhiều
thể loại và đã xuất bản tới 100 ngàn trang sách in trong lúc sinh thời. Ông
cũng dùng các kinh nghiệm khi đi xa để viết ra các sách du lịch.
Sau một cuộc nổi loạn, Vua Louis
Philippe bị truất phế và ông Louis Napoléon Bonaparte được bầu làm Vua của
nước Pháp. Vì bị ông Louis Bonaparte không ưa thích, Alexandre Dumas phải bỏ
chạy sang Brussels, nước Bỉ, vào năm 1859, một phần cũng để trốn chạy khỏi các
chủ nợ. Vào năm 1859, Alexandre Dumas chạy sang nước Nga, đây là quốc gia mà
tiếng Pháp là ngôn ngữ thứ hai của giới trí thức, cho nên các tác phẩm của
Alexandre Dumas được rất nhiều người quý trọng. Alexandre Dumas sinh sống tại
nước Nga trong 2 năm.
Vào tháng 3 năm 1861, Vương Quốc Ý Đại
Lợi được thống nhất với vị Vua là Victor Emmanuel II. Alexandre Dumas đã tới
nước Ý vào thời gian này, tham dự vào phong trào thống nhất quốc gia, lập nên
tờ báo “Độc Lập” (Indipendente) rồi khi trở về Paris, ông đã cho xuất bản các
sách du lịch nói về nước Nga, nước Ý.
Mặc dù quá khứ quý tộc của gia đình và
sự thành công cá nhân, Alexandre Dumas vẫn bị một số người kỳ thị bởi vì tổ
tiên của ông có hôn nhân với người da đen. Vào năm 1848, Alexandre Dumas đã
viết ra cuốn tiểu thuyết George, trong đó có đề cập tới chủng tộc và các ảnh
hưởng của chế độ thuộc địa.
Có một người đã xúc phạm ông Alexandre
Dumas vì gốc tổ tiên từ châu Phi nên ông Dumas đã trả lời: “Cha của tôi là một
người lai đen, ông nội tôi là một tên mọi đen (a negro), ông cụ nội của tôi là
một con khỉ. Vâng, thưa ông, gia đình tôi bắt đầu (là con khỉ), đây cũng là
nơi mà gia đình của ông đang là” (My father was a mulatto, my grandfather was
a Negro, and my great-grandfather a monkey. You see, Sir, my family starts
where yours ends).
III/ Đời sống riêng tư và sự nghiệp.
Vào ngày 01 tháng 2 năm 1840,
Alexandre Dumas cưới cô Ida Ferrier (tên con gái là Marguerite Joséphine
Ferrand) (1811-1859) nhưng ông Dumas vẫn có tình ái lăng nhăng với hàng chục
phụ nữ khác và có ít nhất 4 người con với các phụ nữ này:
-
Alexandre Dumas Con (1824-1895), con trai với bà Marie Laure Catherine Labay
(1794-1868), một người thợ may. Alexandre Dumas Con sau này cũng trở nên một
tiểu thuyết gia và một nhà viết kịch nổi tiếng.
-
Marie Alexandrine Dumas (1831-1878), con gái với bà Belle Krelsamer
(1803-1875).
-
Micaella Clélie Josepha Elizabeth Cordier (sinh năm 1860), con gái với bà
Emélie Cordier.
- Henry Bauer, con trai với người đàn bà tên là Bauer.
Vào năm 1866, Alexandre Dumas có liên hệ tình ái với Cô Adah Isaacs Menken,
một nữ
diễn viên người Mỹ, đã từng thành công tại các thành phố London và Paris.
Theo học giả Claude Schopp, Alexandre
Dumas có 40 người tình và ít nhất 3 đứa con hoang (natural children).
Alexandre Dumas qua đời vào năm 1870,
được chôn cất tại nơi sinh là Villier Cotterets trong tỉnh Aisne. Ngày qua đời
của ông đã bị lu mờ vì trận Chiến Tranh Pháp Phổ (the Franco- Pussian war).
Vào năm 1970, một trạm xe điện ngầm
trong thành phố Paris được đặt tên là Trạm Alexandre Dumas Paris Métro, để
tưởng nhớ Nhà Văn vĩ đại này. Bên ngoài thành phố Paris, Lâu Đài Monte Cristo
đã được sửa chữa lại và trở thành một Viện Bảo Tàng, mở ra cho dân chúng tới
thăm viếng.
|
Điện Panthéon - nơi chôn cất các vĩ nhân của Pháp |
Vào năm 2002, nhân ngày kỷ niệm 200
năm Ngày Sinh của Nhà Văn Alexandre Dumas, Tổng Thống Pháp Jacques Chirac đã
tổ chức một buổi lễ long trọng để vinh danh Nhà Văn Dumas, hũ tro của nhà văn
này được đặt trong Điện Panthéon của nước Pháp, là nơi chôn cất của các Danh
Nhân của nước Pháp. Lễ Đưa Rước được truyền hình, một quan tài mới phủ vải
nhung màu xanh, chở trên xe ngựa, hộ tống là 4 Vệ Binh Cộng Hòa mặc y phục của
4 Chàng Lính Ngự Lâm, tất cả đoàn Lễ Đưa Rước đã đi qua thành phố Paris để tới
Điện Panthéon. Alexandre Dumas được an táng lại bên cạnh các Đại Văn Hào như
Victor Hugo và Emile Zola.
Tổng Thống Jacques Chirac đã nói rằng
nước Pháp đã sản sinh ra được rất nhiều nhà văn có tài nhưng không có ai đã có
các tác phẩm được đa số độc giả như Văn Hào Alexandre Dumas, bởi vì các tiểu
thuyết của ông đã được dịch sang gần 100 ngôn ngữ và được chuyển thành hơn 200
bộ phim ảnh.
Vào tháng 6 năm 2005, cuốn tiểu thuyết
cuối cùng của Alexandre Dumas có tên là “Chàng Hiệp Sĩ của Sainte Hermine”
(The Knight of Sainte Hermine) được phổ biến tại nước Pháp trong đó có kể lại
về Trận Thủy Chiến Trafalgar (The Battle of Trafalgar). Nhà văn Dumas đã tạo
nên một nhân vật giả tưởng là người đã giết chết Lord Nelson, người Anh. Thực
ra, Lord Nelson đã bị bắn và tử thương vì một tên bắn sẻ trong trận thủy chiến
này.
Cuốn truyện kể trên đã được ông Dumas
viết ra và chưa hoàn thành trước khi tác giả qua đời và được đăng báo theo
nhiều kỳ vào năm 1869. Một học giả chuyên nghiên cứu về Nhà Văn Alexandre
Dumas là ông Claude Schopp đã viết tiếp 2 chương rưỡi cuối cùng, căn cứ vào sự
ghi chép của tác giả Dumas, để tạo nên một trong các tác phẩm bán chạy nhất (a
best seller) với ấn bản đầu tiên là 60,000 cuốn, do nhà xuất bản Phebus
(Editions Phebus).
Vào năm 2006, tác phẩm này được dịch
sang tiếng Anh với tên là “The Last Cavalier” (Người Kỵ Sĩ Cuối Cùng) và tác
phẩm này cũng được chuyển dịch sang nhiều ngôn ngữ khác.
IV/ Các Tác Phẩm phiêu lưu lịch sử chính của Nhà Văn Alexandre Dumas.
Alexandre Dumas đã viết ra rất nhiều
truyện hay và các biên niên sử (historical chronicles), kể lại về các cuộc mạo
hiểm.
-
Le Capitaine Paul, 1838 (Captain Paul = Đại Úy Paul), tiểu thuyết đầu tiên
được phổ biến bằng các bài viết định kỳ.
- Acté of Corinth, hay là The Convert of St. Paul, a tale of Greece and Rome
(1839), một tiểu thuyết về thành phố Rome, bạo chúa Nero và thời kỳ Thiên Chúa
Giáo ban đầu.
- Le Capitaine Pamphile (Captain Pamphile = Đại Úy Pamphile, 1839).
- Le Maitre d’armes (The Fencing Master = Thầy Dạy Kiếm, 1840).
- Chateau d’Eppstein (Castle Eppstein = Lâu Đài Eppstein, 1843).
-
Georges (1843): nhân vật chính trong tiểu thuyết này là một người lai, một ám
chỉ về tổ tiên gốc châu Phi của chính ông Dumas.
-
Le Chevalier d’Harmental (The Conspirators = Hiệp Sĩ Harmental, 1843), cuốn
truyện này về sau được Paul Ferrier chuyển thành một vở kịch Opera.
-
Une fille du Regent (The Regent’s Daughter = một người con gái của Quan Nhiếp
Chính, 1845), cuốn truyện nối tiếp cuốn kể trên.
-
Louis XIV et son siècle (Louis 14 and His Century = Vua Louis 14 và thế kỷ của
nhà vua, 1844).
-
Histoire d’un casse noisette (The Nutcracker = Lịch Sử của cái tách hạt dẻ,
1844), bản sửa chữa từ câu chuyện của Hoffmann: Chuyện cái tách hạt dẻ và Vua
Chuột (The Nutcracker and the Mouse King), sau này Nhạc Sĩ Pyotr Ilyich
Tchaikovsky đã viết thành bản vũ kịch Ba Lê The Nutcracker.
-
Les Freres Corses (The Corsican Brothers = Các Anh Em Đảo Corse, 1844).
-
Le Comte de Monte Cristo (The Count of Monte Cristo = Bá Tước Monte Cristo,
1844-46).
-
La Guerre des Femmes (The Women’s War = Chiến Tranh của Phụ Nữ, 1845).
- La Tullip noire (The Black Tullip = Hoa Tullip Đen, 1850).
- Olympe de Cleves, 1851-52.
- Isaac Laquedem (1852-53, chưa xong).
-
Les Mohicans de Paris (The Mohicans of Paris = Các người Mohicans của thành
phố Paris, 1854).
-
Le Meneur de loup (The Wolf Leader = Người Chăn Chó Sói, 1857), đây là một
trong các tác phẩm đầu tiên viết về người biến thành chó sói.
-
Les louvers de Machecoul (The Last Vendee = The She Wolves of Machecoul = Các
con chó sói của Machecoul, 1859), đây là một truyện tình cảm, không phải về
người biến thành chó sói.
- La Santafelice, 1864.
-
Le Prince des voleurs (The Prince of Thieves = Ông Hoàng Tử của các Kẻ Cắp),
ấn hành năm 1872 sau khi tác giả qua đời, kể về Robin Hood.
-
The D’Artagnan Romances = Các Truyện Tình Cảm của D’Artagnan, kể bên dưới:
-
Les Trois Mousquetaires (The Three Musketeers = Ba Chàng Lính Ngự Lâm, 1844).
- Vingt ans après (Twenty Years After = 20 Năm sau, 1845).
-
Le Vicomte de Bragelonne (The Vicomte de Bragelonne = Bá Tước de Bragelonne),
đôi khi còn được gọi là “Dix ans plus tard = Ten Years Later = Mười Năm Sau,
1847). Khi được chuyển dịch sang tiếng Anh, tác phẩm này thường được in thành
3 phần: - The Vicomte de Bragelonne, - Louise de la Valliere, và – The Man in
the Iron Mask = Người Đeo Mặt Nạ Sắt, phần thứ ba này nổi tiếng nhất.
-
La Reine Margot = Nữ Hoàng Margot, 1845, cũng được xuất bản với tên là
Marguerite de Valois.
- La Dame de Monsoreau = Bà Monsoreau, 1846.
- Les Quatre-cinq (The Forty Five Guardsmen = 45 Chàng Canh Gác, 1847).
-
Les Deux Diane (The Two Dianas = Hai Bà Dianas, 1846). Đây là cuốn tiểu thuyết
về ông Gabriel, Bá Tước Montgomery, là người đã làm tử thương Vua Henry II.
-
Le Collier de la Reine (The Queen’s Necklace = Chuỗi hạt đeo cổ của Nữ Hoàng,
1849-50).
-
Le Chevalier de La Maison Rouge (The Knight of the Red House = Chàng Hiệp Sĩ
của Căn Nhà Đỏ, 1845).
-
Les Compagnons de Jehu (The Companions of Jehu = Các Người Đồng Hành của Jehu,
1857).
-
Les Blans et Les Bleus (The White and the Blues = Các Màu Trắng và Xanh,
1867).
-
Le Chevalier de Sainte Hermine (The Knight of Sainte Hermine = Chàng Hiệp Sĩ
của Miền Sainte Hermine, 1869).
Và còn rất nhiều tác phẩm phiêu lưu lịch sử khác.
Ngoài ra còn có các tác phẩm kịch, các sách du lịch, các sách không hư cấu…
Vào năm 1971, nhà Sử Học Alain Decaux đã thành lập “Hội Bạn Hữu của Alexandre
Dumas” (La Societe des Amis d’Alexandre Dumas = The Society of Friends of
Alexandre Dumas). Mục đích của Hội này là để duy trì Lâu Đài Monte Cristo (Le
Chateau de Monte Cristo) và đây cũng là địa điểm của Hội này.
Các mục tiêu khác của Hội kể trên là tập hợp các người hâm mộ Nhà Văn
Alexandre Dumas, xúc tiến các hoạt động văn hóa tại Lâu Đài Monte Cristo và
thu thập các bản thảo, các tài liệu về Nhà Văn Alexandre Dumas. Hội Trưởng của
Hội này là Học Giả Claude Schopp.
Phạm Văn Tuấn
Tài liệu tham khảo: Wikipedia.org., Britannica Encyclopedia.
Post a Comment