Phạm Văn Tuấn
Jonathan Swift (1667 - 1745) là một nhà văn người Ái Nhĩ Lan, tác giả của
cuốn truyện “Các Chuyến Du Lịch của Gulliver” (Gulliver’s Travels, 1726).
Đây là một đại tác phẩm trong nền văn chương khôi hài.
Jonahthan Swift đã quan tâm rất nhiều tới các hành vi và sự phúc lợi của các
người dân vào thời đại của ông, đặc biệt là sự phúc lợi (welfare) của người
dân Ái Nhĩ Lan và các hành vi của người Anh đối với xứ Ái Nhĩ Lan. Khi nhận
thấy các tập quán, ý tưởng và hành động của người đương thời mà ông cho là
ngớ ngẩn hay có hại, Jonathan Swift đã chế giễu các điều xấu xa này. Khả
năng viết văn của Jonathan Swift để chế nhạo các tập quán, ý tưởng và hành
động ngu ngốc đã khiến cho người dân nước Anh coi ông là một nhà châm biếm
thuộc hạng cao cấp.
1/ Thời niên thiếu của Jonathan Swift.
Sau công cuộc Phục Hưng giòng họ Stuart (the Stuart Restoration) vào năm
1660, ông Jonathan Swift cha (the elder) là người Anh, đã định cư tai nước
Ái Nhĩ Lan và trở nên người quản lý nhà hàng (steward) của Nhà Hàng của Nhà
Vua (the King's Inns) tại thành phố Dublin. Vào năm 1664, ông Swift cha kết
hôn với bà Abigail Erick, bà này là con gái của một vị tu sĩ Anh. Vào mùa
xuân năm 1667, ông Swift cha bỗng nhiên qua đời, để lại cho các người em
trai của ông chăm sóc người vợ, một cô con gái nhỏ và một đứa bé chưa sinh.
Jonathan Swift chào đời tại Dublin vào ngày 30 tháng 11 năm 1667.Cậu bé
Jonathan này lớn lên mà không có cha, sinh sống tùy thuộc vào tấm lòng rộng
lượng của các người chú. Tuy nhiên việc học hành của cậu Jonathan vẫn được
lưu tâm.
Vào tuổi lên 6, cậu Jonathan được gửi tới trường Kilkenny vào thời gian đó,
là ngôi trường hạng nhất của nước Ái Nhĩ Lan (Ireland). Vào năm 1682,
Jonathan Swift theo học trường Đại Học Trinity (Trinity College) tại thành
phố Dublin, nơi đây cậu đậu văn bằng Cử Nhân Văn Khoa (Bachelor of Arts
degree) vào tháng 2 năm 1686 với hạng speciali gratia (by special favour =
do ưu đãi đặc biệt), đây là loại khoan hồng cấp cho người sinh viên bị thi
trượt về một vài môn học phụ, để người sinh viên tốt nghiệp theo đủ các quy
định thông thường.
Jonathan Swift tiếp tục theo học tại Đại Học Trinity để có văn bằng Cao Học
về Văn Chương (Master of Arts) cho tới tháng 2/1689. Cuộc Cách Mạng năm 1688
đã khiến cho Jonathan Swift phải trở về nước Anh và sinh sống nhờ một nhân
vật thuộc gia đình bên mẹ là Sir William Temple, tại Moor Park, Hạt Surrey.
Jonathan Swift ở tại nơi này cho tới khi Sir Temple qua đời vào năm 1699.
2/ Các năm sinh sống tại Moor Park.
Khi còn sinh sống, Sir William Temple đã viết hồi ký và các bài bình luận để
in thành sách, nên đã dùng Jonathan Swift làm thư ký cho ông. Chính
tại Moor Park, Jonathan Swift đã trở nên uyên bác nhờ tòa nhà thư viện rất
đầy đủ của Sir Temple và cũng tại nơi đây, ông đã gặp cô Esther Johnson
(người sau này là Stella), là con gái của bà quả phụ coi nhà cho Sir Temple.
Vào năm 1692, Jonathan Swift nhận văn bằng Cao Học (M.A.) tại trường Đại Học
Oxford.
Trong thời gian cư ngụ tại Moor Park, Swift đã hai lần trở lại xứ Ái Nhĩ Lan
rồi trong lần thứ hai, đã chịu lễ làm tu sĩ của Nhà Thờ Anh Cát Giáo vào
tháng Giêng năm 1695. Vào cuối tháng 1 này, Jonathan Swift được bổ nhiệm làm
mục sư (vicar) của hạt Kilroot, gần thành phố Belfast.
|
|
Trong thời gian từ năm 1691 tới năm 1694, Jonathan Swift đã làm xong một số
bài thơ, đặc biệt là 6 bài thơ ca ngợi (odes) nhưng thiên tài thực sự của
ông chỉ xuất hiện khi ông viết ra những bài văn châm biếm, phần lớn tại Moor
Park giữa các năm từ 1696 tới 1699. Một trong các tác phẩm chính của ông là
cuốn truyện “Một Câu Chuyện của một cái Bồn Tắm” (A Tale of a Tub), xuất bản
nặc danh vào năm 1704, cuốn truyện này gồm có 3 cuốn nhỏ: phần chính = Câu
Chuyện (the Tale itself), là phần châm biếm chống lại “một số lớn các hủ hóa
(corruptions) trong tôn giáo và trong học vấn”, phần thứ hai là cuốn “Trận
Chiến của các Cuốn Sách” (the Battle of the Books) dùng để nói về sự giả bộ
anh hùng (mock-heroic), tác giả đã ủng hộ các người xưa trong việc tranh cãi
các giá trị tương đối của văn chương và văn hóa mới đối với cũ, và phần thứ
ba là cuốn “Bàn Luận về hoạt động cơ học của Tinh Thần” (Discourse
Concerning the Mechanical Operation of the Spirit), trong đó tác giả chế
giễu cách thức thờ phượng và giảng đạo của các người mộ đạo vào thời kỳ đó.
“Một Câu Truyện của một cái Bồn Tắm”
là một tác phẩm xuất sắc vì nhiều lời châm biếm khôn ngoan, văn phong tạo
nên nhiều ảnh hưởng đặc biệt, phần lớn nhờ bản chất của lối văn nhại
(parody). Jonathan Swift đã nhìn thấy phạm vi văn hóa và văn chương đang bị
đe dọa bởi lối thông thái dỏm (pedantry) ghen tị, trong khi tôn giáo, đặc
biệt là Anh Cát Giáo đang bị tấn công bởi nhà thờ Cơ Đốc La Mã (Roman
Catholicism) và nhà thờ của những người bất đồng tôn giáo (dissenting
churches). Tác giả cho rằng các nguy hiểm này đều do một nguồn gốc, đó là
các “sự không hợp lý” (the irrationalities) đang làm xáo trộn các khả năng
cao nhất của con người, đó là “lý trí” (reason) và “lương tri” (common
sense).
3/ Nhà châm biếm, nhà báo chính trị và tu sĩ.
Khi Sir Temple qua đời vào năm 1699,
Jonathan Swift trở lại Dublin vào năm 1700, làm mục sư (pastor) tại Laracor,
Ái Nhĩ Lan và thư ký cho Bá Tước Berkeley (the Earl of Berkeley), ông này
qua xứ Ái Nhĩ Lan làm Bộ Trưởng Tư Pháp (Lord of Justice).
Sau khi từ chức mục sư (vicar) tại
Kilroot, Jonathan Swift đã giữ nhiều chức vụ trong Nhà Thờ Ái Nhĩ Lan và ông
đã viết nhiều bài báo, chứng tỏ rằng tác giả đã thường xuyên theo dõi các
biến cố tại Ái Nhĩ Lan và tại nước Anh. Trong số các bài viết này, có bài
luận văn tên là “Khảo sát về các tranh luận và các mối bất hòa giữa các nhà
Quý Tộc và các người Dân Thường tại hai thành phố Athens và Rome” (Discourse
of the Contests and Dissentions between the Nobles and the Commons in Athens
and Rome), và trong bài luận văn này, ông Jonathan Swift đã biện hộ cho sự
cân bằng lực lượng theo Hiến Pháp giữa Vương Quyền và Hai Viện của Nghị Viện
Anh bởi vì sự cân bằng này là cách chống lại sự độc tài.
Ông Jonathan Swift đã trở lại thành
phố London vào các năm 1701, 1702, 1703 và các năm từ 1707 tới 1709. Tại
thành phố London, ông Jonathan Swift được nhiều người thán phục vì sự duyên
dáng cá nhân và lý trí sáng suốt của ông khi là một nhà văn. Về tôn giáo,
Jonathan Swift là một người trung thành tuyệt đối với Nhà Thờ Anh Cát Lợi
(the Anglican Church) nhưng ông không tin tưởng vào thần quyền của các vị
vua (the divine right of kings).
Jonathan Swift trong khi điều hành
nhà thờ, đã có được nhiều bạn bè thuộc hạng cao cấp của chính quyền Anh, ông
sớm trở nên một nhà văn viết chính trị (a political writer), là nhà văn
chính viết các cuốn sách nhỏ cho đảng Tory (đảng Bảo Thủ) rồi vào cuối tháng
10 năm 1710, ông là chủ bút của tờ báo “Người Xem Xét” (the Examiner), tờ
báo tiếng nói của đảng Tory, giữ chức vụ này tới ngày 14 tháng 6 năm 1711.
Ông đã cổ võ sự hòa bình với nước Pháp, kết quả là ông được tưởng thưởng vì
các phục vụ, nên vào tháng 4 năm 1713, Nữ Hoàng Anne đã bổ nhiệm ông làm Tu
Viện Trưởng (dean) của Nhà Thờ St. Patrick tại Dublin.
4/ Rút lui về Ái Nhĩ Lan.
Khi Nữ Hoàng Anne qua đời vào tháng
8 năm 1714, Vua George I lên ngôi vua khiến cho đảng Tory bị suy kém vì đảng
Whig kiểm soát chính quyền vào năm đó, sự thay đổi này đã chấm dứt quyền lực
chính trị của Jonathan Swift và các bạn bè của ông tại nước Anh. Ông trở về
xứ Ái Nhĩ Lan và sống ẩn dật. Jonathan Swift bắt đầu làm thơ, trong các tập
thơ, nổi tiếng nhất là cuốn “Các lời thơ về cái Chết của Tiến Sĩ Swift”
(Verses on the Death of Doctor Swift).
Về đời tư, Jonathan Swift không lập
gia đình. Trong khi làm việc cho Sir William Temple, Jonathan Swift đã gặp
một cô bạn gái trẻ tuổi tên là Esther Johnson mà ông gọi là Stella. Khi đề
cập tới cô Stella, Jonthan Swift vẫn coi cô ta như là một người bạn.
Jonathan Swift đã viết nhiều bức thư dài gửi cho cô Stella trong những ngày
bận rộn nhất của ông. Các bức thư này được xuất bản sau khi ông qua đời, in
thành tập sách có tên là “Nhật Ký gửi Stella” (Journal to Stella).
Tác phẩm nổi tiếng nhất của Jonathan
Swift là cuốn “Các Chuyến Du Lịch của Gulliver” (Gulliver’s Travels) xuất
bản vào năm 1726. Người ta không biết ông đã bắt đầu viết tác phẩm này vào
năm nào nhưng qua các bức thư của ông, nhiều người tin rằng Jonathan Swift
bắt đầu viết tác phẩm kể trên vào năm 1721 và hoàn thành vào tháng 8 năm
1725. Sau khi xuất bản, tác phẩm kể trên đã thành công ngay bởi vì cuốn
truyện vừa giải trí, vừa kích thích trí tò mò của mọi loại độc giả.
|
Tranh vẽ trên tường diễn tả Gulliver đến nước Lilliput của người tí hon |
Vào mùa thu năm 1739 tại Dublin đã
có một buổi lễ lớn vinh danh nhà văn Jonathan Swift rồi sau đó, tác giả này
bị đột quỵ (stroke). Năm 1742, ông Jonathan Swift bị yếu sức rồi qua đời vào
ngày 19 tháng 10 năm 1745 và được chôn cất trong khu vực Nhà Thờ St.
Patrick. Jonathan Swift đã để lại một số tiền để xây dựng một bệnh viện dành
cho những người bị bệnh tâm thần (mentally ill).
5/ Các chi tiết về Tác Phẩm.
- Tên đầy đủ của Tác Phẩm: Gulliver’s Travels, hay là Travels into Several Remote Nations in the World.
- Thời điểm và nơi viết Tác Phẩm: 1712
– 1726 tại London và Dublin.
- Năm xuất bản: 1726 (ấn bản đầy đủ
được xuất bản vào năm 1735).
- Người xuất bản: George Faulkner.
- Loại tác phẩm: tiểu thuyết.
- Thể loại: châm biếm.
- Ngôn ngữ: tiếng Anh.
- Thời gian của câu chuyện: đầu thế kỷ
18.
- Nơi chốn của câu chuyện: nước Anh và
các miền đất tưởng tượng là Lilliput, Brobdingnag và phần đất của các con
vật Houyhnhnms.
- Thể văn: quá khứ.
- Giọng văn: châm biếm, ngây thơ, cay
đắng.
- Người kể chuyện: Lemuel Gulliver
trong ngôi thứ nhất.
- Quan điểm: là của Lemuel Gulliver.
- Chủ đề: sự hay thay đổi của vận may
và các khuyết điểm của các cư dân tại các miền đất mà Gulliver đã thăm viếng
và các cản trở trong công việc trở về quê cũ của Gulliver. Tác phẩm cũng đề
cập tới các bản chất tự nhiên của con người, các thiếu sót về đạo đức và sự
tham nhũng trong xã hội Anh.
6/ Vài nhân vật chính trong truyện.
Lemuel Gulliver: là người đi du lịch
và cũng là người mạo hiểm, đây là nhân vật chính trong cuốn truyện “Các
Chuyến Du Lịch của Gulliver”. Gulliver cũng là người quan sát và nhận xét về
các nền văn hóa và các sự việc xẩy ra.
Brobdingnag: là xứ sở của các người
khổng lồ.
Glumdalclitch: là con gái của người
nông dân trong xứ sở Brobdingnag, cô bé này thường quan sát Gulliver và bảo
vệ Gulliver khỏi các tai nạn.
Houyhnhnms: là các con ngựa loại cao
cấp, biết lý trí và là chủ nhân của các con Yahoos.
Yahoos: là loại người vượn đáng
ghét, bị các con ngựa houyhnhnms thuần phục.
Con ngựa xám: là con ngựa thuộc loại
houyhnhnm và là chủ căn nhà mà Gulliver cư ngụ.
7/ Các Chuyến Du Lịch của Gulliver.
A/ Chuyến Du Lịch thứ nhất: tới Xứ Lilliput.
Sau khi bị đắm tầu, Lemuel Gulliver,
một bác sĩ người Anh ở trên con tầu biển, đã tỉnh dậy và thấy rằng mình bị
trói xuống đất và vây chung quanh là các người cao 6 inches (15 cm), đây là
những người Lilliput (the Lilliputians). Khi Gulliver dự tính tìm cách tháo
dây trói thì các người Lilliput đã bắn vào người Gulliver bằng các mũi tên
giống như các mũi kim nhỏ, vì thế ông ta đành chấp nhận đầu hàng trước các
kẻ bắt trói mình.
Không lâu sau đó, các người Lilliput nhận thấy rằng Gulliver có cử chỉ tốt
lành nên họ bắt đầu làm cho ông ta vui vẻ. Gulliver nhận biết rằng đây là xứ
sở mà các nhà chính trị đi thăng bằng trên dây thừng để đạt được các chức vụ
công. Các quan lớn thì nhận được các sợi chỉ mầu nhờ nhẩy qua hay đi luồn
qua các thanh gỗ ngang mà Hoàng Đế kiểm soát, rồi các sợi chỉ mầu này sẽ
khiến cho họ có được các địa vị ưu đãi. Sau khi Gulliver thề trung thành với
Hoàng Đế thì ông ta được cởi trói, nhưng một vị đô đốc tên là Skyresh
Bolgolam không ưa ông ta.
Sau đó Gulliver thăm thành phố giống
như đồ chơi của người Lilliput và quan sát các phong tục của họ, một số
phong tục thì đáng quý mặc dù xa lạ. Thí dụ, lòng bất nhân là một tội phạm
nặng nề, các công dân được tưởng thưởng khi tôn trọng pháp luật, cả hai loại
người nam hay nữ đều được giáo dục như nhau. Nhưng người Lilliput cũng có
các vấn đề. Các đảng phái chính trị bất đồng ý kiến với nhau vì hiến pháp cổ
xưa đòi hỏi giầy cao gót hay thấp gót. Các bộ trưởng của Hoàng Đế đi giầy
thấp gót trong khi giầy cao gót lại được dùng phổ thông hơn.
Người Lilliput cũng có các tranh luận về tôn giáo. Trong khi giáo điều cổ
điển đòi hỏi rằng quả trứng gà phải đập ở đầu lớn trong khi gần đây, Hoàng
Đế lại ra nghị định rằng mọi người phải đập trứng tại đầu nhỏ. Nhiều người
Lilliput do niềm tin, nên đã chấp nhận chịu chết còn hơn tuân theo nghi
định. Vào lúc này, Hoàng Đế Blefuscu của một hòn đảo bên cạnh và là kẻ thù
lâu đời của xứ Lilliput, đã ủng hộ loại người Big-Endians, và loại người này
đang đe dọa xâm lăng xứ Lilliput.
Gulliver đã lội qua xứ Blefuscu và
đã kéo hạm đội địch qua eo biển về xứ Lilliput. Hoàng Đế xứ Lilliput rất hân
hoan, muốn chinh phục xứ Blefuscu nhưng Gulliver từ chối làm nô dịch một dân
tộc tự do. Trong khi các thương lượng hòa bình đang được tiến hành, Gulliver
đã giúp đỡ các đại sứ của xứ Blefuscu. Đô Đốc Bolgolam và Thủ Tướng của xứ
Lilliput là Flimnap đã coi hành vi của Gulliver là phản bội. Flimnap cũng
trở nên ghen tuông bởi vì có lời đồn xấu rằng Gulliver là người tình của vợ
ông ta. Gulliver cũng có thêm nhiều kẻ thù bởi vì ông ta đã xúc phạm tới bà
Hoàng Hậu khi ông ta đi tiểu để dập tắt một vụ hỏa hoạn. Bolgolam và Flimnap
tố cáo Gullier là phản bội nên Hoàng Đế đã bí mật ra lệnh xử tử Gulliver.
Gulliver đã trốn qua xứ Blefuscu và rồi một tầu buôn Anh đã cứu ông ta và
đưa trở về nước Anh.
B/ Chuyến du lịch thứ hai: tới xứ Brobdingnag.
Khi Gulliver là một y sĩ trên một
con tầu đi biển, ông ta và một nhóm thủy thủ được phái đi tìm nước uống trên
một hòn đảo, nơi này lại là đất đai Brobdingnag của một giống người khổng
lồ. Khi đã ở trên đảo, nhóm người của Gulliver bị một người khổng lồ săn
đuổi. Trong khi các thủy thủ kia bỏ chạy được, Gulliver bị bỏ lại đằng sau
và bị bắt. Người khổng lồ bắt được Gulliver là một nông dân, đã mang
Gulliver về nhà và đã đối xử với Gulliver một cách tử tế nhưng cũng khác
thường. Người nông dân này giao Gulliver cho cô con gái của ông ta chăm sóc,
cô bé này tên là Glumdalclitch và cô ta đã lo lắng cho Gulliver với lòng từ
tâm.
Người nông dân khổng lồ đã mang
Gulliver đi trình bày khắp các miền quê để cho mọi người cùng nhìn rõ. Cuối
cùng người nông dân đã bán Gulliver cho Nữ Hoàng. Tại triều đình, Gulliver
đã gặp nhà vua và cả hai đã thảo luận với nhau vào nhiều dịp về các tập tục
và hành vi tại quê hương của Gulliver. Vào nhiều lúc, nhà vua bị xúc động và
buồn rầu vì những sự ích kỷ và nhỏ mọn mà Gulliver đã kể lại, trong khi đó
Gulliver đã bào chữa cho nước Anh.
Một hôm và tại nơi bờ biển, Gulliver
đang ở trong một chiếc hộp và nhìn ra ngoài khơi thì một con chim đại bàng
đã chộp lấy chiếc hộp rồi thả trên mặt biển. Một con tầu biển đi gần đó đã
nhận ra chiếc hộp đang trôi nổi và Gulliver được cứu thoát, sau đó ông ta đã
trở về nước Anh và đoàn tụ với gia đình.
C/ Chuyến Du Lịch Thứ Ba: đi tới xứ Laputa.
Gulliver đang ở trên một con tầu đi
về phía đông của miền Địa Trung Hải. Gulliver được giao nhiệm vụ làm thuyền
trưởng của một con tầu nhỏ một cột buồm để đi tới một hòn đảo gần đó và tìm
cách thiết lập mối liên lạc thương mại. Trong chuyến đi này, các kẻ cướp
biển đã tấn công con tầu và đặt Gulliver vào một con thuyền nhỏ để tự tìm
cách thoát thân. Trong khi nổi trôi trên đại dương, Gulliver đã khám phá
thấy một hòn đảo bay (a Flying Island) có tên gọi là Laputa. Khi ở trên hòn
đảo bay này, Gulliver đã gặp nhiều người, kể cả nhà vua. Tất cả mọi người
đều bận rộn vì các công việc liên quan tới Toán Học và Âm Nhạc. Ngoài ra các
nhà thiên văn đã dùng các định luật về từ trường để di chuyển hòn đảo lên
xuống, tiến về phía trước hay lùi về phía sau cũng như bay sang bên cạnh,
như vậy họ đã kiểm soát được cách vận chuyển của hòn đào so với hòn đảo ở
phía dưới có tên gọi là Balnibardi.
Trong khi ở trên hòn đảo bay,
Gulliver đã thăm viếng các đảo Balnibarbi, Grubbdubdrib và Luggnagg. Cuối
cùng, Gulliver tới được nước Nhật Bản rồi tại nơi này, ông ta đã gặp Hoàng
Đế Nhật Bản. Từ Nhật Bản, Gulliver trở về Amsterdam rồi cuối cùng về đến nhà
trong nước Anh.
D/ Chuyến Du Lịch Thứ Tư: đi tới xứ của loài ngựa Houyhnhnm và loài người
vượn Yahoo.
Khi Gulliver là thuyền trưởng của
một con tầu buôn hướng về các hòn đảo Barbados và Leeward, nhiều thủy thủ
của ông ta đã bị bệnh và chết trong chuyến đi biển. Tại Barbados, Gulliver
đã thuê nhiều thủy thủ thay thế. Những người sau này hóa ra là những tên
cướp biển, chúng đã thuyết phục các thủy thủ khác nổi loạn. Ngay lúc đó
Gulliver đã bị tấn công bởi một nhóm sinh vật xấu xí, đáng kinh tởm và giống
như người thường mà về sau này, ông ta mới biết tên của chúng là
Yahoos.
Những con vượn người này đã đánh phá Gulliver bằng cách leo lên cây rồi
phóng uế vào người ông ta. Gulliver được cứu thoát bởi một con ngựa mà sau
này mới biết tên gọi là Houyhnhnm. Con ngựa sám Houyhnhnm đã đưa Gulliver về
nhà của nó, tại nơi này Gulliver được giới thiệu với một con ngựa cái màu
sám là vợ và hai con ngựa con cùng với một con ngựa màu hồng, là đầy
tớ.
Gulliver cũng nhìn thấy rằng các
người vượn yahoos bị giam giữ trong các bãi rào kín, xa với khu nhà ở và
không kể tới quần áo thì Gulliver và các người vượn yahoos đều là một loài
thú vật, từ quan điểm này, Gulliver và chủ nhân là con ngựa sám đã thảo luận
về sự tiến hóa của giống người vượn yahoos, về các đề tài, các quan niệm và
hành vi liên quan tới xã hội yahoo mà Gulliver là người đại diện và về xã
hội loài ngựa houyhnhnm.
Mặc dù Gulliver được đối đãi đặc
biệt tại nhà của con ngựa màu sám nhưng Hội Đồng của nhà Vua loài ngựa này
đã quyết định rằng Gulliver là một con yahoo nên phải về sinh sống với các
con yahoos không văn minh hay là phải trở lại thế giới riêng của
Gulliver.
Rất buồn, Gulliver phải đóng một con thuyền nhỏ rồi dương buồm đi tới một
hòn đảo gần đó, tại nơi này Gulliver đã thấy một nhóm thủy thủ từ một con
tầu Bồ Đào Nha. Thuyền trưởng của con tầu này đã đưa Gulliver trở về Lisbon
rồi sau đó quay về nước Anh.
Khi về nhà, Gulliver đã bị gia đình
yahoo của chính ông ta xua đuổi vì thế Gulliver đã mua hai con ngựa để chăm
sóc và nói chuyện với chúng trong chuồng ngựa, ngõ hầu có thể xa lánh gia
đình yahoo của chính mình càng lâu càng tốt.
8/ Vài nhận xét về cuốn truyện "Các Chuyến Du Lịch của Gulliver".
Tác giả Jonathan Swift cho rằng
trong đời sống xã hội, thường thấy các tật xấu như tham nhũng, khoe khoang,
dèm pha... và các hành vi vô lý, trong khi các hành vi hợp lý là lý trí,
lương tri, sự cứu xét đúng dắn, đây là các căn bản dùng cho đời sống công
bằng và từ thiện... các đức tính sau này là của Vua Brobdingnag. Các định
chế trong xã hội lúc đầu thì đơn giản nhưng dần dần trở nên suy đồi. Tại xứ
Liliput, người ta đạt được các địa vị cao nhờ vào các thủ đoạn chính trị nhỏ
mọn, không liên quan tới tài năng và khả năng.
Tại các xứ Liliput, Laputa và
Luggnagg, quyền lực đã bị dùng không đúng cách cho nên người dân bị áp chế
và đã có các âm mưu chính trị. Trong khi đó, Vua Brogdingnag đã cai trị xứ
sở bằng lương tâm và lý trí, nên đã tránh được các âm mưu như đã xẩy ra với
chính quyền Liliput, còn tại xứ sở của loài ngựa Houyhnhnms thì họ hoàn toàn
theo lý trí, vì vậy họ được hưởng nền hòa bình, sức khỏe và sự hòa hợp. Tại
xứ sở của loài ngựa này, các đại biểu quốc hội chỉ cần họp bàn với nhau một
lần mỗi 4 năm bởi vì loài ngựa là các sinh vật theo lý trí nên họ cần tối
thiểu các tổ chức xã hội.
Tác giả Jonathan Swift cũng tin
tưởng giống như nhiều người trong thế kỷ 18 rằng không có hai con người bằng
nhau, tức là luôn luôn có người này tài giỏi hơn, người kia tài kém hơn, bởi
vì mọi người không phải sinh ra bằng nhau và tác giả Swift không đồng ý về
sự ưu tiên dành cho các người sinh ra từ các gia đình quyền quý. Ông
Jonathan Swift đã chỉ trích sự không công bằng giữa người giàu có và kẻ
nghèo hèn, phê phán sự phân biệt giai cấp không được căn cứ trên tài
năng.
Theo tác giả Swift, giá trị cao phải được đặt vào lương tri (common sense),
kiến thức thực tế và lý trí (reason). Tại xứ sở Brobdingnag, sự học vấn thì
đơn giản và thực tế, các sách vở rất ít. Tại xứ sở của loài ngựa Houyhnhnms,
họ không dùng chữ viết mà dùng lời nói, trong khi tại hai xứ sở Laputa và
Balnibarbi, người ta nhấn mạnh vào lý thuyết và các vấn đề thiếu thực
tế.
Tác giả Jonathan Swift cũng châm
biếm nhiều loại nghề nghiệp: các nhà chính trị và các luật sư bị coi là các
người làm hư hỏng chân lý (the truth), các bác sĩ là các lang băm (quacks)
thường hay làm chết người. Ông Jonathan Swift không chối bỏ nền văn minh
nhưng ông ca ngợi tính đơn giản, tính thuần lý. Theo ông, các xã hội tốt đẹp
nhất là thứ xã hội không quá phức tạp, tại nơi này người dân được cai trị
bằng lý trí và bằng tấm lòng từ thiện.
Phạm Văn Tuấn
Tài liệu tham khảo: Wikipedia.org.; Britannica Encyclopedia, Cliffsnotes,
Sparksnotes.
Post a Comment