Header Ads

Hương Ký Ức


Tùy bút từ đôi vần thơ tình, của B-G

 Binh Già

Bạn mến,

Mừng vì hạnh phúc trời ban còn chứa chan, cho người dân tận hưởng tràn trề hương vị ngọt ngào từ chốn đồng nội quê mình; đậm đà ngay từ gốc chuối phất phơ tầu lá xanh mướt thân tình…  Nhân có ít hàng về chuối dưới con mắt nhìn riêng, tôi cũng mong được hân hạnh chia sẻ cùng mọi người.

Sự thực-thà hành văn này vốn được viết nghiêng về giọng Bắc ta; hòng ôn lại phần nào tiếng mẹ đẻ tự thuở tiền chiến vàng son.  Cũng mong lời lẽ nôm na ngày cũ là phần nào phương tiện tìm về nguồn cho đàn sau.

May nhờ chỗ thân tình không ngại nhắc, tôi mới bàng hoàng nhận ra nhược điểm. Bên cạnh cú pháp ít nhiều tản mạn về nội dung, thì chính phần từ ngữ nặng địa phương tính (Bắc Việt) như vừa trình bầy đã là trở ngại không nhỏ. Điều này dễ khiến không ít độc giả miền Nam cảm thấy kém thoải mái vấp phải tiếng lạ tai đâu đó. Hy vọng phó bản này sẽ truyền đạt rành rọt hơn.

Trước khi bước vào chủ đề, ta hẵng thưởng thức lại bài thơ lãng mạn làm nền cho thiên tùy bút nhà quê nhà mùa (quê mùa) này.                                             

PARIS CÓ GÌ LẠ KHÔNG EM?

Paris có gì lạ không em?
Mai anh về em có còn ngoan?
Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ,
Em có tìm anh trong cánh chim?
Paris có gì lạ không em?
Mai anh về giữa bến sông Seine.
Anh về giữa một dòng sông trắng,
Là áo sương mù hay áo em?

Em có đứng ở bên bờ sông?
Làm ơn che khuất nửa vầng trăng.
Anh về có nương theo dòng nước?
Anh sẽ tìm em trong bóng trăng.

Anh sẽ thở trong hơi sương khuya,
Mỗi lần tan một chút sương sa.
Bao giờ sáng một trời sao sáng,
Là mắt em nhìn trong gió đưa.

Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay,
Tóc em anh sẽ gọi là mây.
Ngày sau hai đứa mình xa cách,
Anh vẫn được nhìn mây trắng bay.

Anh sẽ chép thơ trên thời gian,
Lời thơ toàn những chuyện hờn ghen.
Vì em hay một vầng trăng sáng,
Đã đắm trong lòng cặp mắt em.

Anh sẽ đàn những phím tơ chùng,
Anh đàn mà chả có thanh âm.
Chỉ nghe gió thoảng niềm thương nhớ,
Để lúc xa vời đỡ nhớ nhung.

Paris có gì lạ không em?
Mai anh về mắt vẫn lánh đen.
Vẫn hỏi lòng mình là hương cốm,       
Chả biết tay ai làm lá sen?

(thơ Nguyên Sa)

oOo


Một

Cũng vì bản-chất quá tàn-khốc và tự giới-hạn mà thiên-tai hay chiến-tranh không thể là giải-pháp tự-nhiên xóa mờ nạn nhân-mãn.  Mặt khác, hiện-tượng quyên-sinh như loài chuột lemming (ở vùng Bắc Cực lạnh cóng rủ nhau đi tự trầm hàng loạt cho đất này đỡ chật) cũng chớ hề thấy xẩy ra trong lịch-sử loài người.  Đôi điều vừa nêu chỉ là phiến-diện trước quan-tâm vì sao dân số thế-giới chỉ có tăng mà không hề biết giảm.  Phải chăng chính những giây phút dễ chịu nhỏ nhoi trám (đắp) vào đâu đó trong suốt cuộc làm người đã khiến thiên-hạ yêu đời, bám khư khư lấy nó dẫu phải đắm mình trong nghịch cảnh triền-miên?

Hạnh-phúc đâu thể bảo là không có thực trong “bể khổ” mà tôn-giáo quy cho là sự an-bài khắt-khe của định-mệnh?   Ngay với một sinh-linh bất-hạnh nhất thì niềm vui xẩy ra cho dù chỉ thoáng qua chăng hay chớ, vẫn là nguồn an-ủi vô-biên.  Huống hồ giây phút dễ chịu ấy (đó) thực ra nào thiếu ở đời? Điều này đã chẳng từng được giác-quan phàm-phu chứng-nghiệm không ít qua thú yêu đương không biết chán vào lúc này lúc khác, hoặc thói ăn quen đến mòn vẹt (lút cán) đôi hàm răng đấy (đó) thôi.


Từ kinh-kỳ Thăng-Long, bản-sắc văn-hoá nước ta (mình) dần dà lan tỏa ra ngoài tầm châu-thổ sông Hồng rồi trải dài theo hành-trình Nam Tiến; thế nhưng trải qua bấy nhiêu thế-hệ, đất Hà-Nội ban-sơ vẫn nghiễm-nhiên là tâm-điểm của hàng nghìn (ngàn) năm văn-vật.  Xiết bao sự-kiện dân-gian lẩn-quất (ẩn hiện) tại chốn xưa đã từ lâu thành khuôn mẫu ước-lệ (kiểu mẫu) ăn chặt (thấm sâu) vào khối óc bình-dân.  Dăm ba tiêu-chuẩn linh tinh đo lường hương sắc cuộc đời, đại-để như "... húng Láng, tương Bần, nước mắm Vạn-Vân...” có thể tạm lấy làm ví-dụ vặt khả-dĩ (để có thể) nói lên tập-quán sinh-hoạt lâu ngày năng quen từ tâm-hồn mộc-mạc…

Mỗi lúc sì sụp húp thìa (muỗng) nước phở Bắc nóng sốt thiếu điều rộp (phỏng) lưỡi quyện vào vị lạp-chi-chương [1] đỏ chót cay tóe hào-quang, thì những người năm cũ thường chết mê theo dăm (năm ba) ngọn húng cây ngan ngát vặt (ngắt) từ luống rau làng Láng.  Cuộng mùi (cọng ngò rí) lẫn hành thái (sắt) nhỏ mà kèm thứ lá thơm gờ (bìa) răng cưa nhạt mầu diệp-lục-tố này phụ họa vào thì còn phải nói: hương gừng hồi thảo-quả ngấm trong nước ninh (hầm) xương cơ-hồ (làm như) xộc (bốc) liền lên óc ngay khi chưa kịp nuốt.

Lại nữa, nhát (lát sắt) thịt bò thui hon hỏn (đỏ hường) lắt-lẻo tí (chút xíu) bì sần sật, vấy lất phất (dính lấm tấm) tí thính (bột gạo rang cháy) khen khét mùi cháy cơm kia cũng tha thiết mong được dầm (ngâm) mình vào thứ nước chấm ngọt lừ, thơm nồng vị gừng già.  Đấy là bát tương đỗ (đậu nành) sóng sánh dành cho chầu (bữa) đánh chén bí tỉ (nhậu say khướt) mà mợ mình (cổ) đã thật (thiệt) khéo chiều, xắn tớn quần móng lợn (xắn quần ngay từ hai bên cạp hông, để cho phía ngoài gấu ống quần cao lên) tất ta tất tưởi (lật đật) lội bộ sang mãi bên làng Bần (-Yên-Nhân) đong về đãi chúng (tụi) anh cho kỳ được mới nghe.

Thóc đâu no gà, của nhắm (mồi nhậu) bở (bắt bén) như vầy thời (thì) rượu tăm (mới cất sủi bọt) mấy vò (hũ) mà chả (chẳng) kiệt (cạn)?  Duy có điều vào thủa (thuở) quan-hà cách trở tài-hóa (đồ buôn bán) kém thông-thương, thì đã mấy ai người Bắc từng nếm qua sản-phẩm chính hiệu Phú-Quốc đảo; bởi vậy chum (lu) nước mắm ủ (rú) tại Vạn-Vân kia mới được dân đàng ngoài (đất Bắc) nức nở khen lấy khen để là ngon...

Hai


“...  Anh sẽ đàn những phím tơ chùng,
“Anh đàn mà chả có thanh-âm.
“Chỉ nghe gió thoảng niềm thương nhớ,
“Ðể lúc xa vời đỡ nhớ nhung.

...

“Vẫn hỏi lòng mình là hương cốm,
“Chả biết tay ai làm lá sen? [2]
(Nguyên-Sa)

Nhà thơ thủ thỉ tự tình về dáng huyền xa xăm từng gắn bó trong tâm tưởng.  Cơ mà (nhưng) giá thử lời người được hiểu thế tục hơn, thì sự thể sẽ khác đi nhiều lắm.

Kẻ tự vấn (hỏi) lòng ấy mong gì dáng dấp phơi phới ăn trắng mặc trơn ở người em gái chân quê?  Hẵng (hãy) khoan kể trăm công nghìn việc nhọc nhằn nhẫn-tâm giết dần giết mòn tấm dung-nhan, chỉ riêng cái nắng chang chang bỏng giẫy (phỏng nẩy người) giữa trời kia cũng đã thừa lửa thiêu đen ròn làn da lam lũ…  Nào đâu nõn nường đôi chân giai-nhân bên nụ sen hồng?  Đâu xuân-nữ yêu-kiều lãng-đãng khoắng nước cầu ao để ai đấy ôm cầm ngơ ngẩn thả hồn theo giai-điệu mơ say?

Giang-san đong đưa lá chen hoa của họ nhà SEN --bé là ao, lớn thành hồ, thành đầm-- là món quà lâu đời lâu kiếp mà giời (trời) đất cho không con dân thôn ổ (nhà quê).  Trỗi lên (vươn) từ chiếc lọ xoàng (tầm thường) ghé bên song cửa chan hòa nắng, hình ảnh những búp sen căng phồng lung linh trên bó cuộng (cuống) gầy ngả nghiêng mãi dật dờ trong lòng khách tha-hương…  Mường tượng nhớ.  Để thương hoài.


Dường như người không tha cho sen tẹo (chút) nào.  Hạt gạo [3] tuốt (vuốt) ra trên đầu chùm nhị vòng quanh gương hoa được rắc đầy lên búp chè (trà) non vào giai đoạn ủ héo.  Trong suốt thời-gian sấy khô bằng nhiệt âm ấm từ đĩa đèn dầu lạc (đậu phọng), chè dần dà hấp đẫy (đầy) hơi sen từ nguồn hương-liệu thiên-nhiên này.  Không hắc như giống trà mạn rẻ tiền tẩm ét-xăng nhân-tạo pha lấm tấm ít hạt hoa ngâu làm mầu (giả tạo), lứa chè khô thanh thoát hương sen kia thường chỉ vừa đủ dành đãi khách quý ‎lại (tới chơi) nhà.

Những tay phú-hào xưa kia còn chỉ tay năm ngón sai người ngồi thuyền nan vin (níu) từng bông sen hàm tiếu mà nhét vào đấy không dúm chè (nhúm trà) khô thì cũng viên giò sống (mọc), rồi buộc túm đầu cánh hoa lại.  Chỉ độ ít hôm, đấy sẽ là loại chè sen có một không hai.  Còn mọc thì cũng lên men lactic acid thành món nem chua độc-đáo cho kẻ sành đời gật gù thù-tạc (cùng nhậu).




Bao hạt khô đậu (còn giữ lại) trong những gương sen già hình nón ngược sẽ được tỉ mỉ tẽ (tách) đôi lấy thằng cuội [4] trong lõi cho ông lang già làm đầu-vị an-thần [5].  Phúc chủ lộc thầy.  Mong liều thuốc đắng êm ru đôi mắt thao thức sầu ai chợp (khép lại ngủ) được một giấc, mà quên bẵng (phứt) nợ đời…

Hạt sen sau đấy được tách khỏi vỏ cứng bằng cách nào?  Chả mấy ai thạo.  Chỉ thấy hàng đống hạt trắng ngà bầy có ngọn tại hiệu (tiệm) thuốc Bắc, hoặc lủng lẳng từng sâu nõn như chuỗi trân-châu (ngọc trai) treo trên sạp chợ mà dân Sà-Goòng kêu là hôộc seng Guế (Huế).  Phần hạt nguyên vẹn này là vật-liệu vẽ vời món mứt sen trần (hạt bỏ vỏ) cho giới lịch-sự biếu xén nhau vào độ Nguyên-Đán, Trung-Thu.  Nhân được mùa, mẹ quê cũng hầm nháo nhào chỗ hạt đã gẩy bỏ nhân thành thức bổ tì bổ vị.  Thế là đàn (bầy) trẻ bụng ỏng đít beo (teo) lon ton đuổi nhau ngoài ngõ được nhờ bữa chén béo bở no nê.


Mấy cô nường chít khăn mỏ quạ chả nề hà (ngán) tốc váy chọc phứa (bừa, đại) đôi bắp chân béo trắng xuống hồ cạn, mà mím môi kéo cưa lừa xẻ cả buổi với lũ củ sen lằng nhằng chằng chịt.  Rồi họ lễ mễ cắp (bưng) hàng rổ củ đen nhẻm những bùn nặng mùi về cho mẹ nhà ra tay luyện (chế) thành bột.  Ấy là vô số hạt cốm tròn lắt tắt (nhỏ vụn) mầu vàng ngả nâu.  Bột sen mà nấu chè đường hoặc pha vào nước lã cho em bé và các cụ giải-nhiệt qua buổi trưa nồng thì còn gì bằng?

Vốn được hun đúc từ nguồn nhựa luyện trắng đục ấm áp --qua tác-dụng quang-hợp tinh-bột trong cơ-chế diệp-lục-hóa từ các phiến lá ngưỡng-thiên (hướng lên trời) choán (phủ) khắp mặt đầm-- đám củ sen mãn đời vùi âm u trong lớp bùn mát rượi đã hội đủ tính bán hàn bán ôn (nửa lạnh nửa mát).  Họa có (chỉ trừ) thuốc tiên mới hòng sánh kịp dược-tính hiếm hoi này trong môn tiêu-trừ uất-kết (sầu hận) tại những cõi lòng muốn tìm quên bên cạnh cuộc đời.  Bột sen bảo thế có quý không?

Đến cái ngó khẳng khiu (gầy guộc) âm thầm ngoi trong nước cũng bị ai vơ cào vơ cấu (quơ đại), gom thành hàng bó lượt thượt (dài thoòng) đưa ra chợ.  Rồi thì nhà bếp tước bỏ lớp tơ ngoài, ruôi (bào) mỏng thành từng đoạn ngắn cho vào đĩa nộm (gỏi) hoa hòe trên mâm cỗ.  Tí chan chát kín đáo của cuộng (cuống) sen hòa cùng hương-vị mằn mặn, chua, cay lẫn ngọt bùi dậy lên trong món ăn chơi kia dễ khiến khách khó tính phải tiết-tâm-linh [6].

Đũa gắp lên, biết đâu khách đa-cảm lại chẳng chạnh lòng ngậm ngùi thay Kiều nương, “Đã lìa NGÓ ý còn vương TƠ lòng” thương tưởng Kim lang?

Ba


Như ví dụ (thí dụ) ban đầu, vào những ngày tuồng chữ quốc-âm ta còn chưa thành hình, thì nét hấp-dẫn của sản-vật nhân-văn vẫn thường được truyền-khẩu trong dân-gian dựa theo địa-danh tiêu-biểu.  Và chất CỐM trữ-tình sớm ló dạng trong văn-học sử bình-dân từ độ xa vời ấy.  Kể ra thứ con đẻ của đủ loại bông nếp này (nào là nếp ngỗng thượng-hạng, nếp cái hoa vàng, cho chí những giống má làng nhàng) đã được chế-biến tại khắp nơi chả (không) cứ riêng đâu.  Nhưng phải là cốm Vòng, sản-xuất theo lối cổ-truyền của làng Vòng tại ngoại-ô châu-thành Hà-Nội thì mới ra trò (đúng điệu).  Cùng đùm trong tấm lá héo nhưng cốm làng ấy bao giờ cũng ngon sơi hơn mọi chỗ.  Đủ thấy bí-quyết sống để lại chết đem theo [7] của loài người quá lợi hại.


Cơn gió chiều tràn qua đồng lúa dật dờ lả ngọn quyện theo làn hương dìu dịu mùi lá dứa vào tít (tận) trong làng.  Những hạt ngậm chất lỏng trắng đục ngọt thanh thanh cụp trong lọn đòng-đòng bắt đầu mẩy (mọng) lên chờ ngày đơm bông.  Gió thoang thoảng hẹn rằng chỉ nay mai là bẹ lúa xum xuê đáo (tới) tuổi gặt dành cho lứa cốm đầu thu --sớm trước mươi hôm (bữa) so với thu hoạch bình thường--

Đôi tay thuần-thục vừa đập, vừa trân-trọng vuốt lấy từng hạt chớm đông sữa (sắp cứng thành hẳn gạo) từ bó bông ngà xanh chưa kịp chín vàng xuống cái nong [8] cả đời nằm tịt (tuốt) dưới đất.  Rồi thì với lối sản xuất thủ-công mải miết truyền đời từ thời cổ-giả (lạc-hậu) làm gì ra máy xay, mọi công-đoạn làm cốm được diễn-tiến tăm tắp (liền lạc) chả khác chi (không khác gì) tài tử múa dẻo lành nghề.

Trước hết phải sao [9] lúa cho vừa độ chín để chất nếp kịp đông quánh nhưng không bị ròn, đoạn gượng dẹ (nhẹ tay) giã lách cách rõ nhanh (mau) tay cho hạt bẹp dí (xẹp lép) bong (tróc) ngay khỏi vỏ trấu; mà đừng dính bết vào cối mới là cừ (nghề).  Cần sàng [10] cám và xẩy bỏ vỏ trấu sau khi giã xong vài cối.  Hình bóng nghìn (ngàn) năm ngồi xổm (chồm hổm) áp đầu gối bẹp (xẹp) dí cả ngực vẫn mải miết lay động.  Vòng eo âm thầm như nhập vào vô vàn vòng hulas uyển chuyển theo chiều tay lắc qua lắc lại.  Thế là bụi cám thơm phức cứ thế rắc lả tả xuống cái mẹt (hoặc nia [11]) hờm sẵn.

Mà cũng chả (chẳng) mấy khi cần đặt người lên chiếc ghế lè tè làm gì.  Tấm lưng ong giờ đây tự nhiên vươn thẳng như cốt giữ cân-bằng bền cho động-tác xẩy tổn sức hơn.  Hai cổ tay thoăn thoắt đẩy đưa chiếc sàng theo chiều lên xuống liên-hoàn, tuồng như hất bỏ mà lại như tiếc rẻ hấng giật lại; tựa hồ bếp Tây nhịp nhàng lật mặt trứng rán (chiên) ở trên không từ chiếc chảo tay cầm quá khổ.

Loáng vài cái xẩy nhẹ như bỡn (chơi), mày trấu vất vưởng bay tiệt đi (tuốt luốt), để lúa còn sót trong cốm được cho lại vào cối.  Sau dăm (năm) lần bẩy lượt giã đi giã lại và sàng xẩy tái-hồi, là đẹp mặt một mẻ cốm.  Rồi thì mẻ khác, mẻ khác nữa...  Lứa cốm hóa-thân ánh mầu lá mạ như ngọc thạch sau rốt được hồ --làm ẩm bằng chút nước lã vẩy (rẩy) lên-- cho thêm rền [12] và tươi tắn.  Tập lá sen vành vạnh (tròn) để gói ghém nhân thể được xếp gọn trên thúng cốm đầy.  Xá chi nắng nỏ, độ ẩm tàn-dư trong gói đủ giữ cho miếng ăn thi gan (đua) dẻo mãi đến giây phút chạm bờ môi.  Mùi ngai ngái chừng như pha mốc từ phiến lá ỉu (héo mềm) hòa cùng hơi hướm nhị sen phảng phất theo mạch nhựa khô, đã nồng nàn ấp ủ từng hạt mỏng dánh (dính) tuyệt-trần.


Dân Nam thường chờ bông lúa non ửng vàng (hườm) thêm ít ngày nữa rồi mới gặt để làm cốm dẹp, bầy ê hề (đầy) ngoài kẻ chợ.  Loại cốm dầy mình vàng xỉn như lấm (vấy) đất này được ướp nước dừa nạo qua đêm trước khi ngào đường.  Dư-vị đậm đà sau miếng ăn bùi béo thật khó mà quên...  Mấy người hàng bánh chí thú làm ăn, lúi húi (cặm cụi) gói ghém những hạt cốm khô hạng bét (xoàng) ra ngoài nhân đậu xanh, thêm tí (chút) cùi dừa bào (cơm dừa), ăn gian thêm tí phẩm xanh lè, đoạn đồ [13] chín thành một thức (món ăn) ngọt khé cổ.  Đích-thị đấy (đó) là lô bánh cốm dở dẻo dở nhão (dẻo nhẹo), được thể (dựa hơi) vênh vang (làm bảnh) theo đuôi chồng bánh xô xê [14] trong buổi dẫn lễ cưới xin.

Bà (già) Còng làng Vòng chả hơi đâu (hơi sức đâu mà) bầy vẽ cho nhọc xác (cực) ngoài việc kẽo kẹt quẩy quang mây (đồ treo thúng).  Chỉ mỗi việc đơm lổn nhổn (xúc đại) hàng vốc cốm tươi vào lá sen, rồi gói lại cho khách muốn dùng thế nào tùy-tiện.  Vẫn chiếc đòn gánh đặc biệt chuyên-nghiệp ấy, ngày ngày từ bảnh mắt (vừa mở m) dân làng đã oằn vai mang hàng thúng cốm vào lầm lũi bán dạo (rong) khắp ngõ ngách băm (ba mươi) sáu phố phường.

Thêm bao nhiêu gói lá buộc lạt chữ thập lùng bùng những cốm (phập phồng đầy c) là đồng quà ngon cho trẻ mỏ (t em) đương hí hửng ngóng (hớn hở mong) mẹ về chợ...  Trong quán chợ xiêu xiêu có cô em hả hê (đã đời) gắp lọt thỏm (lủm gọn) miếng chả trộn cốm vàng nhẫy (óng) từ bát bún mọc đầy tú hụ (tràn) vào khóe miệng xinh xinh.  Mấy khoanh ớt phải gió (tai quái) lênh đênh trên mặt cái bát loa (tô, tộ) chao chát (song sánh) những nước su‎ýt (n lèo) ngọt ngào đang làm mắt mũi cô sụt sùi cứ là phải biết (không cầm được).

“Mà rãi rớt (chất tiết) có nhoe nhoét (tèm lem) như thế (n vậy)… thì đã làm sao (ăn thua gì) chứ?  - Úi dào (ối sời)!  Còn xấu gái (ma lem) với ai vào đây cơ chứ lị (nữa)?”

Xưa kia cốm vẫn được xuý‎t xoa xem (tấm tắc coi) như phẩm-vật giao-duyên trang-trọng nhất đời.  Kè kè (cặp k) bên thúng xôi con lợn béo cùng những quả (trái) hồng mọng đỏ kiêu-sa, mâm cốm có ngọn hoan-hỷ tháp-tùng sang (qua) chốn gia-đường (nhà cha mẹ) cái người mà ta đây nhỡ phải lòng (lỡ xiêu lòng) hôm sớm ra ngẩn vào ngơ...  Duyên thề bồi phỉ nguyện bình-sinh.  Cậy sính-lễ hậu-hĩnh mà nên đôi sắt-cầm hảo-hợp thì vui sướng này để đâu cho xiết?

Hỡi ơi,
"Mình dối ta mình chửa có chồng,
"Để ta mang cốm mang hồng sang sêu 15.
"Ta sang mình đã lấy chồng,
"Để cốm ta mốc, để hồng long (tróc) tai 16.
"Ngỡ là long một long hai,
"Ai ngờ long cả trăm hai quả hồng!
(Ca-dao)


Bốn


Hiểu biết ít ỏi (oi) chính là nguồn cơn thôi-thúc loài người dấn bước tìm tòi và không ngừng đi tới; thế (vậy) thì liệu có đủ thỏa (thỏa mãn) cho đời xẩm xoan (kẻ mù hát xẩm) chỉ thấy con voi qua mỗi cái vòi hay tai nó không?

Kiến-thức cá-nhân nom (xem) ra nào hơn khung trời bé nhỏ in trong mắt đôi ba con ếch ngồi chồm chỗm (loi ngoi) dưới đáy giếng dẩu (ngỏng) mỏ nhìn (dòm) lên.  Cái ta sâu sắc đến đâu với tầm nhìn vừa bằng nắm cốm lèn (nhận) trong gói lá sen?  Chả là (chỉ là) tình cờ một hôm có khách đeo tầu hoả (xe lửa) từ Hà-Nội vào (vô) Sài-Gòn biếu mình gói cốm Vòng gọi là chút hương hoa quê nhà.  Lành thay cho của một đồng công một nén, chần chừ (chờ) gì mà ta không mở béng (đại) ra?  Thế là khoái-cảm khôn cùng từ cái biết nhỏ nhoi chợt dấy lên, từ đấy...

Tôi đã ru hồn về làng Vòng thần-thoại xa tít mù xa, mong vớt lại chút thơm tho ngây ngất của làn gió đồng rì rào buổi chiều hè; những chiều mà thằng bé (nhỏ) trong tâm-khảm mình lăm lăm chiếc cần câu trúc ngồi bó gối lặng nhìn con cá rô thực thà đớp chặt miếng mồi ác-nghiệt.  Bên bờ ruộng xâm xấp nước trong vắt quanh vùng Phú-Lâm ở ngoại-ô Sài-Gòn, ngày ấy lúa vừa trổ đòng đòng.  Hương ký-ức làm bừng sống trong tôi bao nàng thôn-nữ môi thắm má hồng phần phật áo khăn giữa lòng đồng nội bao la, bên hồ sen lá hoa thăm thẳm...


Nay trở lại lối thưởng-thức cốm của người Hà-thành cho thêm tròn câu chuyện.  Ai có lần lim dim gẩy (khẩy) chầm chậm dúm (nhúm) cốm mỏng vào miệng sẽ thấy ngay vị lờ lợ (sương sương) ngọt từ thứ thức (đồ) ăn rời rạc, vừa dẻo vừa dính lại vừa cưng cứng dai dai, được quai hàm không ngại tốn thì giờ lẩn mẩn nghiền thành bột này.

Miếng nhai vừa trôi khỏi cổ, cơ-thể tức thời nẩy sinh một cảm-giác khác vời.  Chất đường mạch-nha rồi thì tan loãng theo nước bọt (n miếng), nhưng dư vị nào vẫn dùng dằng lưu-luyến trên mạng khẩu-cái vòm hầu…  Nhận thức ấy rồi sẽ lui vào tiềm-thức đợi giờ ôn lại.  Mà chỉ mùi hương cốm lẩn (ẩn) trong tấm lá sen héo hon kia mới đủ biểu-hiện thành lời.


Mốt giáo-dục thời Pháp-thuộc khá là nhập nhằng (chằng chịt).  Dân bản-xứ được nhồi moral hơi kỹ về ý-niệm thanh-cảnh:  “Ăn để mà sống không phải sống để mà ăn”… đến bội-thực [17], như kẻ thực-dân.  Có thể liên-tưởng đến sự sành điệu khi bàn sang phong-cách hưởng-thụ của người Pháp-lăng-xa thanh-lịch.  Thế nhưng cứ thử giở gói cốm Vòng mọn (nhỏ nhoi) ra mà xem (coi).  Mới hay lối ăn quà của các cụ nhà ta cũng lên hàng nghệ-thuật từ thuở tám hoánh [18] nào rồi chứ không ư?

Nghĩ khổ thân (tội nghiệp) cho Tây; có rỏ dãi (nhiểu nước miếng) cũng chẳng mấy đời ngộ ra sức quyến-rũ của quả chuối tiêu (trái chuối già) theo thói quen thưởng-thức món cốm nhạt (lạt) tại nước non mình.  Ngày ấy bên chính-quốc làm gì sẵn chuối nếu các chuyến tầu rời thuộc-địa còn biền-biệt chưa cập bến nhà.  Của quý cần phải hưởng cho đáng đồng tiền bát gạo.  Họ bèn cầu kỳ kén loại phó-mát [19] (phô-mai) ngậy (béo) nhất chợ dành cho bữa đét-xe (tráng miệng).  Bóc toẹt (b trần) quả chuối chưa kịp chín tử-tế (đàng hoàng), cha con kiểu cách (bày đặt) xắn phuốc-sét  [20] vào (thọc nĩa vô) từng miếng chuối ương ương (sượng) và từng mảnh (mẩu) phó-mát; rồi cứ vậy nhem nhẻm nhá (chóp chép nhơi) chẳng sẩy miếng nào.


oOo


“...  Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc [21],
“Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên...
(Chinh-Phụ Ngâm)


Tiêu, nghĩa chữ là cây CHUỐI các loại, bao gồm vô số giống tương-cận mọc rải rác khắp vùng mưa nhiệt-đới.  Đấy cũng là tên thường gọi của thứ quả dài ngoằng (thoòng) mà người và khỉ cùng lấy làm khoái-khẩu. Mầu da quả chín chuyển từ xanh phơn phớt đến (tới) ửng vàng (hườm) ở xứ ta, hoặc vàng loẹt (vàng khè) tại nơi khác.

Chuối tiêu còn được gọi (kêu) là chuối già, thì chắc tại (vì) lớp quả phía dưới nải cong vồng như sống lưng còng mãn đời gồng gánh.  Lại thêm danh từ chuối già hương (chín thơm lừng) nữa.  Vả lại không thơm thì dầu chuối để làm chi mà không hít hà ăn với thạch đen (sương-sáo) cho sướng miệng?

Sau thiên-chức kết buồng nuôi cho nải đủ sức chín, đồng thời san nhựa kèm cho cây con [22] nẩy bên gốc tự-lực cánh-sinh, là lúc chuối mẹ hết còn muốn nấn ná thêm chuỗi ngày đẩy đưa mưa gió.  Người theo đạo thánh xem đấy là đức tiết-liệt của đấng mẹ hiền; cho nên thường cung-kính thượng từng nải chín nứt lên bàn thờ ông vải (gia-tiên).  Quan-điểm này rõ trái ngược với việc ‎kiêng kỵ cúng chuối tại một số vùng châu-thổ Nam Việt.

Vấn đề trên được giải-thích hết sức dễ hiểu.  Bị vì tiếng chuối phát-âm theo người Nam thành “chúi”.  Cũng như gọi chậu quất cảnh (kiểng) là “tắc” vậy, thì bầy cúng lô (đám) của nợ này sao sánh bằng mâm ngũ quả vòi vọi trưng Tết, nào là mãng cầu (na)- dừa- đù đủ- xoài- sung?  Đối với rất nhiều cảnh ngộ không khá, thì âm nói trại “cầu- d(v)ừa- đủ- x(o)ài- sung (sướng)…” quả-nhiên đong đầy lòng an phận thủ thường, cốt mong cho đủ sống.


Tâm-hồn người mình phong-phú thế thì thôi, tượng-thanh đã đành là vậy, lại còn tượng-hình nữa cơ (nữa đó)...  Kể cũng lạ ra phết (kỳ ghê nơi).  Quả chuối tiêu cong cong thườn thượt (thoòng loòng) có gì kỳ mà bà khách vấn khăn vành dây kia phải lừ mắt nguý‎t (nhíu mày liếc xéo) cô con một phát nên thân (đau điếng) trước khi se sẽ hé môi (bỏ nhỏ) như chả (không) bao giờ muốn người bàn bên nghe lỏm (lén), “Con gái con lứa rõ hay chửa (hay quá hén)!  Gì thì (có gì thì) cũng phải đàng hoàng bẻ đôi nó ra rồi hẵng (hãy) ngoạm (cạp, bập) chứ (chớ)!” 

Kẻ đa-sự (bép xép nhiều chuyện) nào mà biết được chuyện dạy con vừa kể, chắc phải ngửa mặt than rằng đạo Nho chúa thằn lằn là giữ kẽ (thủ cẳng quá tổ); lúc nào cũng cứ lo tội công-súc tu-sỉ ám vào thân gái không bằng!  Hình như (làm như) bóc tô hô (trần sì) cái quả dài thưỡn (thoòng) kia ra rồi cứ nguyên thế mà tọng vào mồm (dọng vô miệng) dưới mắt thánh hiền là bậy lắm hay sao…   Mới hay cháu con phải cái nết hớ hênh, đời nào mà biết ngượng (mắc cở) như các cụ!

Lại còn vô khối niềm tin mâu-thuẫn khác về thứ hoa quả (trái cây) dễ nuốt này; tỷ như kiêng (kỵ) không cho bệnh-nhân rây vào (rớ vô) nó.  Người lớn từng phán rằng tính chuối âm-hàn độc-địa.  Sơi vào thời xót ruột ể mình, chỉ tổ đau oặt (càng bịnh nặng) thêm chứ bổ bán gì cho cam?  Siêu-hình hơn nữa, vác hàng nải đi biếu người ốm dở (mới bịnh) quá bằng trù họ chóng (mau) chết toi (c tốt).  Là bởi chuối vẫn được biện làm lễ vật cúng ba hồn chín vía kẻ qua đời không sai một ly ông cụ (một chút) nào!


Kịp đến khi (tới hồi) vỏ chuối bắt đầu lốm đốm những điểm nâu sẫm (đậm) như trứng con cuốc-cuốc (chim cuốc [23]), và thân quả săn mềm sẵn sàng lìa cuống sau cái rứt (ngắt) nhẹ, mới là lúc nhẩn nha (từ từ) ta ngồi ta nhấm nháp…  Thể theo tập quán tận-hưởng thú thanh-tao bên chén chè (chung trà) mạn sen nghi ngút hương đưa khi bầy ra chầu cốm mới, nhất định nhà phải có nải chuối tiêu (già) rấm (rú) thật chín.

Này em, hẵng (hãy) kheo khéo dở gói lá sen chẳng kẻo vãi (văng) cốm hoài của (uổng).  Rồi dí móng tay cùn khẽ bấm (b nhẹ) vào bụng quả mà bẻ làm đôi trước khi ngoạm (bập) ngập chân răng từng nửa một.

Việc dùng năm quân dón (năm ngón tay nhón, nhúm --động từ--) lấy hạt tự-nhiên như người Ấn-Độ bốc cơm có cái hay riêng của nó.  Thế nhưng xô bồ chọc (thọc) bừa miếng chuối cắn dở cho nó bám đẫy (đầy) cốm vào --như trẻ chấm chuối vào bột Cam-Tích Tán [24] mà ăn-- thời chẳng còn ra cái kiểu gì!

Vừa lúc vị ngọt hương thơm của miếng chuối chín muồi tráng khắp đáy lưỡi vòm hầu, còn đợi gì không lùa tuốt dúm (nhúm --danh từ--) hạt ngạt ngào vào miệng?  Thế là toàn-phần hương chuối, hương sen, hương cốm vần-vũ quyện theo nhau bốc lên đến (tới) tuyệt-đỉnh thần-hồn...

Hạnh-phúc xiết bao chút cảm-giác phù-du đến (tới bến) rồi đi, qua cái biết không sâu xa gì cho lắm!                       

Tiểu Bình



Ghi Chú


[1]  Lạp-chi-chương
Tương ớt đỏ (không pha tỏi) của người Tầu.  Là gia-vị lâu đời nhất của bát phở Bắc.

[2]  Chả biết tay ai làm lá sen?
Tản mạn về SEN nhân bài thơ nhan-đề “Paris Có Gì Lạ Không Em?” của thi-sĩ Nguyên-Sa.

[3]  Hạt gạo
Bầu phấn nhị đực hoa sen.

[4]  Thằng cuội
Mầm búp xanh lá cây giữa hai nửa hạt sen già.  Còn gọi là “tim / tâm sen”.  Có vị đắng chết đi được.

[5]  Đầu-vị an-thần
Còn có thể kể phương thuốc dân gian, hay thuốc Nam, được tin là có tác dụng an thần kèm chống mất ngủ ở lá vông gói nem, nước bột sen hay bột sắn dây, dây chùm bao (hay nhãn lồng / passiflora), kể cả thức ăn như bí ngô hầm đậu xanh, chè hạt sen nhãn nhục...

[6]  Tiết-tâm-linh
Ứa nước bọt (nước miếng) khi hình-dung ra miếng ăn đầy vị kích-thích, nhất là chất chua.  Tam-Quốc-Chí kể cả một đạo quân thất thểu thấy đỡ hẳn khát vì chủ tướng bịa rằng họ đang tiến gần cánh rừng mơ (quả apricot).

[7]  Sống để lại chết đem theo
Thói dấu nghề truyền đời theo phụ-hệ kiểu Tầu, vốn không kể đàn bà con gái vào đâu vì coi họ như là “nữ-nhân ngoại-tộc”.

[8]  Nong
Giống cái mẹt thật to với thành cao, để chứa ngũ-cốc thu-hoạch trong vụ mùa.

[9]  Sao
Rang lửa nhỏ, đảo đều tay đũa để thức ăn chín khô mà không bị cháy khét.

[10]  Sàng
Dùng nông-cụ đan bằng tre có nhiều lỗ, để rây (là lọc lấy cái “cái”; nghĩa là tách phần vụn ra mà giữ lại phần tử to).


  • Sàng, là rây lúa (lúa vừa được giã hoặc xay) qua cái “sàng” --loại mẹt đan nan thưa-- để cho tấm (gao gẫy) và phần vụn cám lọt xuống các lỗ.  Trên mặt sàng sẽ còn gạo đã long (tróc) khỏi vỏ trấu, lẫn trấu, và chỗ lúa chưa tróc.  Trấu sẽ được xẩy bỏ.  Rồi thì công đoạn giã và sàng lại tiếp tục tái hồi cho đến khi được hẳn mẻ gạo (còn chưa sạch hẳn lớp vỏ cám bao ngoài).


  • Trong trường-hợp cốm (đã chín), thì cám lọt xuống.  Sau đấy, những hạt cốm bẹp long khỏi vỏ, lẫn trấu, và chỗ lúa nếp rang chín chưa long vỏ còn sót trên sàng. Trấu sẽ được sẩy bỏ.  Rồi công đoạn giã - sàng lại cứ tiếp tục tái hồi cho xong hẳn mẻ cốm.


  • Giần, là rây gạo (gạo vừa được giã thêm cho bong hẳn lớp vỏ cám bao ngoài thành bột) qua cái “giần” --giống sàng, nhưng mắt mau hơn (có lỗ nhỏ hơn)--  Đây là động tác dùng hai bàn tay bưng thành giần mà lắc khéo, phải thật thạo tay, theo chiều vòng tròn nho nhỏ, cốt cho cám lọt xuống, còn hạt gạo sạch cám được gạn (lọc) lại.

    Trong lúc giần, manh mụn vỏ lúa còn sót từ từ dâng lên, rồi theo chiều hướng-tâm quy tụ vào giữa bề mặt gạo, thế là mấy đầu ngón tay chốc chốc lại dúm lấy đấy mà bỏ đi.


[11]  Nia
Loại mẹt rộng mênh mang để hấng (hứng lấy) các cái từ sàng hay giần rơi xuống.

[12]  Rền
Dẻo đều.

[13]  Đồ
Hấp chín bằng hơi nước.

[14]  Bánh xô-xê
Hay “xu-xê”.  Chữ gọi là bánh “phu-thê”.

[15]  Sêu
Là lệ đằng trai nộp lễ-vật cho nhà gái vào các dịp tết nhất trong thời-kỳ chưa thành gia-thất.  Theo tục tảo-hôn ngày trước, nhiều bậc cha mẹ đành rứt ruột gả con gái lớn khôn cho trẻ ranh mới nứt mắt để gán nợ; khiến con mình thiếu điều làm con ở hơn là dâu nhà người.  Trong khi ấy cũng có chỗ thiết tha muốn cưới vợ cho thằng cu con còn quẩn bên váy mẹ, nhưng phải cái thông-gia tương-lai tham quá, cứ om con gái họ lây lất tại gia không khứng cho sớm rước đi.  Lắm khi sêu-tết cứ thế kéo dài hàng năm ấy năm khác, thấm thoắt thoi đưa đến hồi chú rể râu ria lún phún hết cả thò lò mũi xanh, gia cảnh sơ xác mà vẫn chửa rước được vợ.

[16]  Hồng long (tróc) tai
Phần đài cuống quả (hồng) long (rời) ra khi quả đã chín nẫu (nhũn).

[17]  Bội-thực
Tiếng đùa, “Thần khẩu hại xác phàm”.  No bụng đói con mắt, ăn uống quá sức chứa của dạ dầy (bao tử) căng cả bụng.  Đau anh ách rồi nôn thốc nôn tháo cả ra.

[18]  Thuở tám hoánh
Thời xa xưa lắm.

[19]  Phó-mát
Là “fromage” (theo Pháp) mà người Nam kêu là “phô-mai”.

[20]  Phuốc-sét
Cái nĩa ghim miếng ăn.  Ấy là người Bắc quen nói theo Tây.

[21]  Ốc
Tiếng Hán (quốc-ngữ hóa), là nhà ở.

[22]  Cây chuối con
Trong thời kỳ cây chuối phát triển và ra quả, có một ít mụn (mụt cây) non mọc lên quanh gốc chính.  Từ quan sát này ca-dao ta đã từng thắc mắc rằng, "Chuối cậy đằng chuối đồng trinh- Chuối ở một mình sao chuối có con?"  Tại VN ta không chồng mà đẻ thế là khổ lắm.  Trong khi theo Hoa-Kỳ thì các giống chuối, mía, hay tre được liệt vào loại "single parents", không vợ chồng vẫn cứ có con là thường.  (Theo Ô Phạm-Đình-Lân, FABI)

[23]  Chuối trứng cuốc
Chuối hơi chín quá, vỏ “châm kim” hay “thâm kim”, theo tiếng Nam.

[24]  Cam-Tích Tán...

1.  CAM, nghĩa Hán-Việt là ngọt.  Là tiếng mà dân Bắc Việt dùng không rõ rệt để chỉ một số bệnh tiểu nhi.  Vài thí dụ như:

- Máu Cam, là đổ máu lành tính từ vách mũi, với tỷ-lệ cao hơn ở trẻ gái, thường tự-nhiên hết sau tuổi dậy-thì.

- Cam Răng, hay sưng lợi ứa máu chân răng vì tội ăn thiếu sinh tố C.

- Cam Ám-Mục, là đau mắt bạo-phát.  Mắt dắm (nhắm) díp lại (híp) vì mí sưng húp, ứa dử (nhử, rỉ) mắt đặc quẹo.

- Cam Tẩu-Mã, là chứng loét hoại-tử màng nhầy thê thảm trên mặt con nhà đói ăn và suy-nhược lâu ngày.  Trăm dâu được đổ lên đầu loại trực-trùng phềnh bụng đồng lõa với đám xoắn trùng loi ngoi trong vùng răng họng thiếu vệ-sinh.  Bệnh cấp-tính ăn lan nhanh như ngựa chạy; có thể hủy-hoại chóng vánh mô mềm từ miệng ra xương mặt, làm giơ cả lợi răng và trơ hốc mũi nom rất kinh-hoàng vào độ trước, khi dân tình còn lạc-hậu.

- Cam Tích ở các em bụng ỏng phưỡn ra.  Ngây thơ ăn bậy lắm vào, để rồi nuôi báo cô (nuôi “chùa“) cả nút giun đũa, tụ thành hàng búi trong ruột non.  “Cam-Tích-Tán” là thứ bột trắng thơm ngọt có công thức bí hiểm bán đầy ở cửa hiệu thuốc Bắc Tầu một thời.  Cho trẻ chấm chuối ăn nó để đuổi cổ lũ của nợ kia đi.

2.  Cũng như Cam, BAN là từ-ngữ rất đại-khái mà người miền Nam ta hay nói về những trường-hợp nổi mẩn trên da, có khi sốt khi không.

- Ban Đỏ, là lên sởi, hoặc một số chứng làm mẩn đỏ da do tụi siêu vi trùng ưa hành trẻ em.

- Ban Trắng, tại “mùa nực mặc áo bông”.  Con ốm được ủ kỹ quá khiến biểu-bì ngoài da rộp lên những nốt mọng nước, từ lấm tấm đến cỡ to hơn.

- Ban Cua, là biểu hiệu đặc thù của bệnh sốt thương-hàn trong kỷ nguyên chưa có Tyfomycine (Chloramphenicol), vào tuần lễ mà da bị nổi ửng tượng hình con cua đồng ngoe càng dưới mắt bác nông-phu.

- Ban nổi trên da ở giai đoạn nhì của nợ Giang-Mai thiếu “bi” (Bi-Penicilline, theo thế hệ cũ) cũng được miêu-tả nên thơ như rải rác cánh đào hồng phớt bám lên mình cái gã tình-si cởi trần:  "Sinh vừa choàng tỉnh giấc Liêu-Trai sau khi lăn lưng đánh giấc ngủ vùi trên thảm hoa rơi rắc dưới cội xuân đào".

- Riêng tiếng Ban Khỉ là vô-duyên không ăn nhập vào đâu.  Ấy là tình-trạng phải bệnh kinh-niên hay là ốm đói, khiến thân-thể đứa em rúm quắt quằn quặt lại như con bú-dù (khỉ).

3.  Tiếng PHONG còn được dùng lung tung hơn nữa, cho dù âm hưởng cũng đá gà đến da dẻ người ta.

- Quen tai nhất là Phong Ngứa (là chứng ngứa do nhiễm trùng, nhiễm nấm, do phản-ứng miễn-nhiễm từ hạt máu trắng, hoặc là dị-ứng hay mẫn-cảm với thức lạ ăn vào) thường làm làn da ửng đỏ, nổi mề-đay hoặc sần lên.

- Phong Cùi (Hủi), còn gọi là Phong, Phong Đơn, hay bệnh Phung.  Chắc tại người mình có máu kỵ húy nên mới gọi chệch bệnh đó thành tiếng thứ ba vừa kể; “Phong” nghe kêu thế dễ gì không là tên cúng cơm của tay chúa tể hét ra lửa ngày xưa…  Hở ra Phong này Phong nọ là dám bị chém bỏ sừ có ngày!

- Có thể kể thêm Phong Tình (Hoa-Liễu), bao gồm số bệnh nghiệt do quen mui lang chạ bầy hầy, đưa đến viêm nhiễm tại đường sinh dục, tiểu tiện, thậm chí di chứng thần kinh nghiệt ngã lấn sang đời con...

- Ngoài chứng Kinh Phong điển hình với các cơn co giật bắp thịt sùi bọt mép, bệnh Phong Đòn Ghính (Gánh) qua vết thương vấy vi trùng từ đất cũng tệ vậy.  Lượng dưỡng-khí dành cho sinh hoạt não bộ vào những lúc động kinh (làm k) bị đốt mất gây tổn hại trí tuệ về sau.  Sài Uốn Ván là một đồng nghĩa mà dân Bắc Việt thường gọi bệnh này.

(Tiếp-đầu-ngữ SÀI cũng được dùng để chỉ tình trạng chốc lở dây dưa trên đầu con nhà đói khổ thời trước.  Lại nữa, tiếng này còn được mơ hồ choàng vào bá chứng lâu ngày hành hạ các em èo uột, lất lây sống dở đời dở đoạn).

•  Từ-ngữ Phong-Long càng bội phần trừu-tượng nếu không tính là dị-đoan.  Hoàn-cảnh áp-dụng dễ khịến người ta mang máng tưởng như có gì bất-lợi ám-ảnh, hơn là hình-dung ra thứ bệnh mà da người hóa ra da con rồng:

- “Bà Ba tiệm làm chi mà cứ lăng xăng như thầy cúng, vừa đốt vừa vẩy giấy đồ văng tùm lum tàn vậy?” - “Ậy, là bả rủa xéo thứ thằng cha mắc dịch, coi đồ cho đã mà không mua giùm lấy một cắc mở hàng.  Phải đốt phong-long tống cổ cái vía ác ôn của chả; không thì có nước ế luôn tới tối!”

 - Sau tuần trăng ở cữ, mẹ em được bà ngoại âu yếm dắt đảo vòng chợ mua này mua kia, đặng đổ phong-long cho xú uế và xui xẻo xuất khỏi thân gái đẻ vô chốn ông đi qua bà đi lại, để bé mình hay ăn mạnh giỏi.

•  Sau rốt là đoạn hậu thiên tùy bút: bi-kịch Thượng-Mã Phong nghìn lẻ một đêm.  Danh nghĩa thể-thao đáng gờm này không ngoài hệ-lụy tử thần của cuộc ái ân định-mệnh.

- "Nhi-nữ tình trường anh-hùng khí đoản".  Tai ương nhiều phần ập lên kiếp trai cưu mang hệ tim-mạch bất tường; với con tim tới số chìm đắm trong tùng thần-kinh giao-cảm bén nhậy không giống ai.  Vào lúc lửa lòng chàng bồi hồi tóe khói, thì bất đồ luồng dẫn truyền tín hiệu chi phối nhịp đập hết còn tuần tự nhi tiến theo chu kỳ cố hữu.  Không kiềm nổi kích thích quá đỗi, bắp tim bấn súc-xích run lên bần bật.  Vách buồng tim rung loạn cào cào cho nên bóp máu cũng như không.  Cực chẳng đã tim đành sớm buông xuôi, để cho tính mệnh bỏ đời theo!

Giả thuyết vừa nêu dựa trên nền tảng tâm - sinh bệnh lý học nhiều hơn ngọn ngành thực nghiệm; bởi lẽ mãi đến nay vẫn chưa thấy công bố chính thức nào về việc mấy kẻ yếu tim có giấy chứng nhận dám đâm đầu làm vật thí nghiệm, để cho y giới nhẩy sổ vào dòm dỏ đo đếm sinh hoạt buồng the nhà họ.  Cũng ngại lắm chứ.  Làm tuồng vui vầy này nọ, lỡ may thành trù ẻo thật mà đi bán muối sớm thì chỉ có gọi là dại mặt.

- Khốn nạn thay!  Giết kẻ đang nỗ lực yêu do bệnh động mạch vành tim lại là một duyên cớ nặng cân và tai ngược hơn.  Bậc đàn ông sồn sồn đứng ở trên đời mấy khi chịu ép mình thanh tịnh?  Lối ăn uống hút sách sam sưa cho đáng mặt râu rìa dễ khiến ít nhiều mảng bợn mỡ lâu ngày dầy kén, ăn chặt lên thành trong huyết quản nuôi tim.  Đám tội đồ nhô lên từ đấy nghiễm nhiên thành thủ phạm đáng giết, ngày một ngày hai thút nút dần sinh lộ về quả tim vàng...

Giữa phút thần tiên cuống quýt tít mù, tim hồi hộp đập liên hồi kỳ trận, rồi thì huyết áp nhất tề lồng lên.  Thôi thì dịp (nhịp) tim cứ là thình thịch như ngựa đuổi (rượt), để cho lũ động mạch vành chết nghẹn giật nẩy theo bén gót.  Vậy thời cần bao nhiêu máu bơm oxygen vào từng sớ tim lúc này cho xuể cơ chứ?  Bị tấn công quá dữ con tim tuyệt vọng đành thúc thủ giữa trận tiền, bỏ chiến sĩ ngắc ngoải "trúng phong” đứ-đừ-đừ lưng chừng trái núi Vu-Sơn.  Bi ai đã chẳng chịu chần chờ, viếng nhau liền vào đầu giờ thứ hăm nhăm!

- Không thuốc cũng tiêu, mà sính thuốc càng tử địa sớm hơn.  Gộp hai điều này nghĩa là cả một nỗi trớ trêu buồn cười khác!  Con voi vâm chỉ cần nhấp nhẹ bàn chân nó lên lồng ngực, chả cần dẫm, cũng khiến anh tôi đau tức cần tương (ném) vội viên thuốc bé tí tì ti vào mồm.  Thế là mọi lòng ống hẹp hòi cởi mở dễ chịu ngay…  Khốn nhưng tớ đã lú, thì lời thầy tớ hết khôn.  Đời đương lên hương vậy, tại sao ta không thừa thắng nhót (lượm) luôn cái hoàn xanh lơ (hườn x dương) bảo bối, nuốt đánh ực cái cho nhau nhờ dăm phút mê ly?


Thuốc muốn khiến máu dưới ấy mọng lên cho của đời tăng phần ấn tượng.  Đương nhiên thuốc vẫn chớ hề quên nghĩa vụ máy móc thả lỏng tuốt lòng máu rưới toàn thân…  Lại còn thần dược ốc tiêu đã chẳng chết dí hồi nào dưới lưỡi đấy thôi.  Tóe loe kèn (té ra) "trăm hoa đua nở".  Mạch càng nở bạo thì huyết áp giờ đây cứ việc tụt hẫng tự do.  Giời ôi, vui nào đã thỏa mà chỉ thấy hoa lên loang loáng sao trời!  Kỵ mã đà thúc ngựa chầu giời trong tích-tắc từ tư thế lên yên.

Rõ khổ không! Thảm nào hơn thân gái bẽ bàng, chẳng đặng đừng buông xuôi tất cả yêu đương?... Cảm kích tuôn tràn.

 Vâng. Rồi thì vài dòng “Hương Tàn Thắp Lại” (thơ Tiểu-Bình) được chép ra đây:

“Sót thay phận mỏng thuyền quyên, 
“Mười hai bến đỗ tình duyên bến nào?
“Duyên ơi, duyên khéo gieo sầu,
“Trăm năm khôn đặng cùng nhau một đời.
“Vì đâu vội vã xa khơi?
“Người đi để lại thiếp tôi ngỡ ngàng.
“Phòng không chiếc bóng thênh thang,
“Dở đường dứt gánh, lỡ làng tình chung.
“Nam-mô khấn nguyện vô cùng,
“Kiếp sau bầy cuộc trùng phùng mà thôi.
“Vô-thường nhất định lẽ trời,
”Hương tàn thắp lại, đời rồi cũng qua...
                                                     
NHƯNG KHÔNG!

Căn-cứ trên dăm nghìn năm dãi dầu giăng hoa giữa lòng Hoa lục, thì trọng-điểm cấp-cứu tai-biến đưa đến bất đắc kỳ tử vừa tả oán đã được thiên hạ quy vào cái huyệt ngoài da.  Tên gì khó nhớ, mà mò dễ hơn nhìn.  Dùng đầu ngón tay trỏ, giai nhân có thể định vị huyệt trước đốt xương sống cùng (phần cuối xương tọa) ngay sau hậu-môn đức ông.  Kịp thấy người trợn trắng dã mắt ngáp cá trong pha cụp lạc, nàng Trung-Hoa dầy kinh-nghiệm mấy kiếp giao phong tức thời hiểu ra mình phải làm gì.  Nghiêng đầu, nàng rút phắt quý trâm bất ly-thân sẵn từ búi tóc mây rồi dứt khoát động thủ: Chọc đánh sựt đầu nhọn nó vào phần mềm vừa tả.  Thế là gỡ ngay được đời quân-tử…

Chân giá-trị của phát châm cứu-tử so với vài viên aspirin nhá nát bét mớm vội vào mồm nhau, hoặc giả mũi epinephrine phần nghìn đâm thấu buồng tim, hầu như hiếm được chính thức kiểm nghiệm vì lắm lý do.  Thứ nhất, bản năng che đậy việc “ông-bà” của người ta tự nó giới hạn cơ hội khảo cứu cởi mở.  Hai nữa là phụ nữ toàn thế giới chẳng phải ai cũng nương nương (Tầu) sẵn sàng trâm cài lược giắt.  Và sau rốt, tập quán hơi tí vác nhau vào emergency cho chắc đã khiến mấy người nữ ngày nay thạo mò mẫm huyệt này huyệt nọ?  Nhưng gì thì gì, hành vi lâm thời của đôi tay búp măng tiết kiệm giai đoạn lò dò tìm thuốc trong bóng tối, quá đúng ý nghĩa “cứu bệnh như cứu hỏa”.

Ngoài lợi điểm tăng phần điệu hạnh diễm kiều cho vì nương-tử thuở xa xăm, mới hay mốt trâm cài kia cực kỳ quý hóa dường nào!  Thì đừng nói chi cái que cũ rích chọc (thọc) qua búi tó thô bỉ của nam nhân cổ giả không đáng gọi là trâm.  Vả lại chẳng bao thì đừng, chứ ngay như ống tiêm (chích) thuốc cấp cứu thời buổi này có lẽ cũng chẳng ma nào kè kè giắt tai phòng hữu sự khi nhập cuộc.

Binh Già


Powered by Blogger.