Frederic Chopin - Chàng Nhạc Sĩ Đa Tình
Âm nhạc được định nghĩa là một loại ngôn ngữ không phải là lời nói thông thường. Các nhạc cụ vì vậy đã trở nên một phương tiện, một thứ xe chuyên chở tư tưởng và tình cảm.Trong các bộ môn nghệ thuật, Âm Nhạc là thứ dễ diễn tả, dễ bộc lộ nhất. Nhờ âm thanh và nhịp điệu, âm nhạc đã mô tả các cảm xúc, ấn tượng, làm lộ ra những xúc động nội tâm. Âm Nhạc đã dùng thứ ngôn ngữ riêng để nói lên thứ hình ảnh hiện thân của thế giới cũng như các cảm xúc trong cuộc đời của mọi người. Âm nhạc được định nghĩa là một loại ngôn ngữ không phải là lời nói thông thường. Các nhạc cụ vì vậy đã trở nên một phương tiện, một thứ xe chuyên chở tư tưởng và tình cảm.
Các nhạc sĩ lãng mạn đã khéo léo phối hợp âm nhạc với lời nói, thành lời ca, hòa vào tiếng đàn như trong thể nhạc Lied, một loại bài hát đã được sáng tác thành công vào thế kỷ 19 bởi Schubert, Schumann, Brahms và Hugo Wolf, hay trong loại nhạc kịch trường (music drama) của Wagner. Ngoài ra còn có loại nhạc chương trình (program music) phối hợp với thơ, với cách mô tả, cách tường thuật, cách bắt chước các âm thanh thiên nhiên và các âm thanh chuyển động, đã dùng tới các hình ảnh tưởng tượng và được diễn tả ra bằng âm thanh.
Nhạc chương trình của thế kỷ 19 khởi đầu bằng bản "Giao Hưởng Đồng Quê" (Pastoral Symphony) của Beethoven, kéo dài tới giữa thế kỷ với các nhạc sĩ Mendelssohn, Schumann, Berlioz, Liszt rồi với các nhạc sĩ đại diện của cuối thế kỷ là Debussy và Richard Strauss. Các nhạc sĩ của thời đại này đã cố gắng bằng cách dùng âm thanh, liên kết một câu chuyện, một bài thơ, một hoạt cảnh với một bản nhạc lãng mạn.
Thế kỷ 19 cũng gặp sự chuyển tiếp về thính giả và sự bảo trợ âm nhạc. Loại thính giả đồng nhất, thường có văn hóa cao và số lượng hạn hẹp như giới quý tộc, đã được thay thế bằng giới trung lưu đông đảo hơn nhưng không đồng nhất, không có trình độ cao về thưởng thức âm nhạc. Các bảo trợ về âm nhạc của các hầu tước, bá tước, các cung đình cũng bị nhường chỗ cho các hội hòa nhạc (concert societies) và các đại hội âm nhạc (musical festivals).
Trường phái lãng mạn của thế kỷ 19 còn có một nét đặc thù, đó là sự khác biệt giữa các nhạc sĩ chuyên nghiệp và các nhạc sĩ tài tử. Các nhạc sĩ độc tấu với tài nghệ xuất sắc đã xuất hiện như Paganini về vĩ cầm và Liszt về dương cầm. Đã tăng thêm các tiêu chuẩn chuyên nghiệp khiến cho sang thế kỷ 20, vai trò của nhạc trưởng trở nên rất quan trọng và nhạc trưởng đôi khi còn được gọi là "nhà độc tài của dàn nhạc".
Trường phái cổ điển và trường phái lãng mạn có thể được coi là hai cực của nền nghệ thuật... Cả hai đặc tính trái ngược cổ điển và lãng mạn đã là hai xung lực căn bản của bản chất con người.Trường phái cổ điển và trường phái lãng mạn có thể được coi là hai cực của nền nghệ thuật. Tinh thần cổ điển đi tìm kiếm sự trật tự, sự cân đối, sự trong sáng của đề tài trong khi tinh thần lãng mạn lại đặt nặng sự xa lạ, tính ngạc nhiên và tình cảm ngây ngất (ecstasy), nhìn cuộc đời với tính chủ quan, khác hẳn yếu tố khách quan của tinh thần cổ điển. Chính vì thế nhà triết học người Đức Friedrich Nietzsche trong các bài viết về nghệ thuật, đã so sánh hai tinh thần cổ điển và lãng mạn bằng hình ảnh của Apollo, vị thần Hy Lạp của ánh sáng và đo lường, tương phản với Dionysus, vị thần của lòng đam mê và tính say sưa. Cả hai đặc tính trái ngược cổ điển và lãng mạn đã là hai xung lực căn bản của bản chất con người.
Franz Liszt |
Trong thế kỷ trước, nhạc sĩ sáng tác cũng là nhạc sĩ trình diễn. Mozart và Beethoven đã trình bày các concerto của chính mình giống như Franz Liszt diễn tấu nhạc phẩm "Tưởng Khúc Hungari" (Hungarian Rhapsodie) hay Niccolo Paganini với các giai điệu vĩ cầm mang âm sắc quái dị. Sau đó, các nhạc sĩ trình diễn tài ba dần dần diễn tấu các nhạc phẩm của nhiều nhạc sĩ sáng tác khác.
Các bậc thầy về các nhạc bản dương cầm của thế kỷ 19 gồm Schubert, Chopin và Liszt, Mendelssohn, Schumann và Brahms… những nhạc sĩ đại tài này đã khai thác các nguồn vô tận của đàn dương cầm và diễn tả một cách xúc tích vẻ lãng mạn và kịch tính của các nhạc phẩm trữ tình.
Cha của Chopin ông Nicholas Chopin |
Cậu bé Frederic đã tiếp thu được một nền giáo dục căn bản tốt đẹp và đã được học âm nhạc với nhạc sĩ Joseph Elsner, vị sáng lập và cũng là giám đốc của Nhạc Viện Warsaw mới được thành lập. Năm lên 7 tuổi, Frederic đã sáng tác nhạc và nhạc bản đầu tiên đó đã được trình diễn nơi công cộng. Năm sau, Frederic cũng đã biểu diễn âm nhạc trước công chúng bằng bản Concerto của Adalbert Gyrowetz.
Năm 1826, Frederic Chopin là sinh viên chính thức của Nhạc Viện Warsaw nhờ đó đã học hỏi được căn bản về nhạc lý, hòa âm và đối điểm. Chopin cũng làm quen với các nhạc phẩm của nhiều nhạc sĩ rồi từ đó đã sáng tác ra các biến khúc (variations) từ những ảnh hưởng của nhạc bản Don Giovanni của Wolfgang A. Mozart.
Nhạc phong của Chopin từ lúc đầu đã mang âm vẻ đặc biệt, khiến cho vị giáo sư âm nhạc là ông Elsner không muốn ép buộc môn đệ đi vào khuôn mẫu cổ điển và đã cho phép chàng nhạc sĩ trẻ tuổi này hoàn toàn tự do để phát triển những nét nhạc đặc sắc cá nhân. Chopin là một nhạc sĩ trẻ tuổi tài hoa và cũng sớm đa tình. Trong các năm còn là sinh viên âm nhạc, Chopin đã say đắm cô ca sĩ trẻ trung tên là Constantia Gladkowska, người đã gây nên trong nội tâm của chàng nhạc sĩ "nước mắt và tiếng thở dài", thứ lãng mạn phổ thông của thế kỷ 19. Chính trong hoàn cảnh đam mê này, Chophin vào tuổi 19 đã viết nên phần Adagio của Concerto cung Fa thứ vì nghĩ tới nàng ca sĩ trẻ đẹp đó.
Năm 1828, nhạc sĩ sáng tác kiêm dương cầm thủ tên là Johan Nepomuk Hummel, người thành phố Vienna, đã viếng thăm Warsaw và đã trình diễn các nhạc kịch kiểu Ý (Italian opera). Chopin nhờ thế làm quen được với nền âm nhạc của thế giới Tây phương thời bấy giờ. Sau đó, Frederic Chopin đã tới thăm thành phố Berlin, được nghe các nhạc phẩm của George Frederick Handel và của Felix Mendelssohn rồi lúc trở về Warsaw, lại được nghe Niccolo Paganini trình diễn âm nhạc. Tới lúc này Chopin cảm thấy rất cần phải ra khỏi nước Ba Lan. Cha của chàng xin chính phủ trợ cấp cho việc du học nhưng lời yêu cầu bị khước từ, vì thế Chopin đã tự túc ra đi, tới thành phố Vienna để dàn xếp việc xuất bản một số nhạc phẩm cũng như trình diễn âm nhạc tại vài địa điểm.
Ngày 11-8-1829 tại rạp hát Karntnerthor, Chopin đã biểu diễn âm nhạc trước công chúng rồi lúc trở về Warsaw năm sau, lại ra mắt thính giả bằng nhiều nhạc phẩm có tên là "Tùy hứng khúc" (fantasie) mang nhạc đề quốc gia (national themes) cùng với một loạt các luyện khúc (etudes) đầu tiên. Sau đó, Chopin đã du lịch qua nhiều thành phố như Breslau, Dresden và Prague, tới Vienna rồi vì hoàn cảnh chính trị không ổn định, Chopin đã không sang được nước Ý. Trong khi sống tại Vienna, Chopin đã sáng tác "nhạc khúc sinh động cung Si thứ" (B minor Scherzo) và "nhạc khúc kể chuyện cung Sol thứ" (G minor Ballade). Những tác phẩm này đã bộc lộ nơi Chopin các nét nhạc đặc sắc cá nhân trước khi Chopin gặp Franz Liszt, Vincenzo Bellini và Hector Berlioz. Chopin chịu ảnh hưởng âm nhạc của Hummel và của phong điệu dương cầm (piano style) từ nhà soạn nhạc người Ái Nhĩ Lan John Field, là người đầu tiên đã dùng danh từ "nhạc khúc đêm" (nocturne) cho các bản nhạc ngắn, trữ tình.
Chopin độc tấu dương cầm cho một gia đình quý tộc Ba Lan Radziwiłłs, 1829 (tranh của Henryk Siemiradzki, 1887) |
Frederic Chopin cũng không phải là một nhạc trưởng hay một giáo sư âm nhạc trong nhiều năm mặc dù do dạy đàn, ông đã kiếm được những món tiền lớn. Trong cả cuộc đời, Frederic Chopin đã trình diễn trước công chúng khoảng 30 lần với những đặc điểm trầm buồn, với sắc nhạc đi từ rất khẽ (pianissimo) tới mạnh vừa (mezzo forte) và rất ít khi dùng sắc nhạc mạnh (forte).
George Sand (tranh của Charles Louis Gratia c. 1835) |
Trong thời kỳ sống tại Paris, Chopin đã nhận thấy mình không đủ sức chịu đựng để tranh tài với các nhạc sĩ bậc thầy về diễn tấu (virtuoso) như Franz Liszt và Sigismund Thalberg, vì vậy Chopin đã dồn thời gian vào việc sáng tác âm nhạc. Chàng nhạc sĩ mảnh mai này đã đóng cửa, ở trong nhà nhiều ngày để dạo đàn và viết ra các nhạc phẩm mà công chúng đều khen ngợi.
Mùa đông năm 1838-39, do tình bạn, George Sand đã đưa Chopin đến sống tại đảo Majorca với hy vọng rằng nơi tĩnh dưỡng này sẽ sớm làm phục hồi sức khỏe cho chàng nhạc sĩ yếu đuối. Nhưng thời tiết đã trở nên xấu và sức khỏe của Chopin suy giảm, tuy thế nhạc sĩ thiên tài này đã sáng tác được 24 dạo khúc (preludes) tại Valldemosa khiến cho nơi này về sau trở thành Viện Bảo Tàng Chopin.
Trong các năm trường từ 1839 tới 1846, Chopin đã trải qua các mùa hè tại lâu đài Nohant của nữ văn sĩ, nơi thường quy tụ giới trí thức, tinh hoa của nước Pháp thời đó. Đây cũng là thời kỳ mà Chopin đã sáng tác phong phú nhất trong khi sức khỏe của chàng nhạc sĩ tài hoa này suy giảm dần, và rồi tình yêu đối với George Sand trở thành xung đột, ghen tuông và đố kỵ. Các người con của George Sand đã trở nên một vấn đề. Chopin đứng về phía Solange là người con gái của George Sand, còn phía kia là nữ văn sĩ và người con trai Maurice, họ thường bất đồng ý kiến trong nhiều chuyện tranh cãi. Hai người tình nghệ sĩ đã cách ly nhau. Sự việc này đã khiến cho Chopin mất đi nguồn cảm hứng và năng lực sáng tạo, cảm thấy thất vọng và bị suy sụp tinh thần. Tình cảm giữa Frederic Chopin và George Sand chấm dứt vào năm 1847. Chopin trở về Paris.
Jane Stirling (tranh của Devéria, c. 1830) |
Frederic Chopin chết vì bệnh lao phổi vào ngày 17-10-1849 tại thành phố Paris. Theo lời yêu cầu của chàng nhạc sĩ lãng mạn này, bản nhạc Cầu Hồn Requiem của Mozart đã được đàn lên trong buổi tang lễ. Đám tang của Frederic Chopin thật là rực rỡ. Các nhà quý tộc, các văn nghệ sĩ lừng danh đã đến viếng thăm quan tài trong đó có cả Meyerbeer, Berlioz và Delacroix nhưng nữ văn sĩ George Sand đã vắng mặt. Frederic Chopin được chôn trong lòng đất Paris cùng với nắm đất của xứ Ba Lan mà chàng nhạc sĩ đã mang theo khi rời khỏi quê hương.
Các sáng tác của Chopin đều liên hệ chặt chẽ với cây đàn dương cầm, đặc biệt nhờ vào sự tăng thêm các phím đàn. Chopin lại là nhạc sĩ rất khéo léo, biết cách dùng bàn đạp (pedal) của đàn dương cầm để có được các cấp độ về sắc nhạc (color) và tiếng vang (sonority) cũng như thí nghiệm nhiều về các cách bấm phím mới (new fingerings), dùng hết khả năng của ngón cái hay ngón thứ 5 trên các phím đen, tận dụng cách trượt ngón từ phím đen xuống phím trắng hay dùng kỹ thuật bắt chéo tay.
Nhờ kỹ thuật ngón tay của Chopin, các bản đàn rất khó trình diễn trước kia, nay trở nên dễ dàng và do trí tưởng tượng sáng tạo về kỹ thuật, các luyện khúc của Chopin đã làm cho các bài tập tầm thường biến thành các nhạc phẩm mang tính chất trình diễn. Chopin còn cải tiến hòa âm với các nét nhạc trữ tình, bay bổng, nhờ đó đã đứng ngang hàng với Liszt và Wagner là hai nhạc sĩ đã nới rộng các quan niệm quy ước về cung điệu (tonality).
Chopin đã dùng kỹ thuật của đàn dương cầm để chuyển âm nhạc thành một nghệ thuật rất nên thơ, một cách diễn tả trữ tình bằng âm thanh. Các người Ba Lan luôn luôn suy tôn Chopin như một nhạc sĩ của đất nước Ba Lan. Miền quê hương này đã được lý tưởng hóa trong trí tưởng tượng của chàng nhạc sĩ lãng mạn với ước vọng về niềm hạnh phúc nơi quê mẹ, với lòng trông đợi hướng về đất tổ của kẻ lưu vong. Các nhạc khúc Ba Lan của Chopin có thể được coi là cách bày tỏ tinh thần quốc gia và là một nhạc thức đặc biệt, tới với nền âm nhạc tây phương bằng tinh thần hiệp sĩ và anh hùng.
Frederic Chopin là một nhạc sĩ lừng danh về các nhạc khúc đêm, nhạc khúc ứng tác và dạo khúc (nocturnes, impromptus & preludes) với cách sử dụng rất tài tình về hòa âm và chuyển cung bán âm (chromatic harmonies & modulations). Các nhân vật danh tiếng như các nhà văn Balzac và Heine, các nhạc sĩ tài danh như Liszt, Berlioz, Mendelssohn và Schumann đều ngưỡng mộ Chopin. Nhạc sĩ Schumann đã gọi Frederic Chopin là "một tinh thần thơ nhạc táo bạo nhất và hãnh diện nhất của thời đại" (the boldest and proudest poetic spirit of the time).
Tài liệu tham khảo: Wikipedia.org., A History of Western Music by Donald Jay Grout, W.W. Norton, N.Y. 1996; Masterworks by Dr. Kern Holoman, Prentice Hall, N.J. 1998…
https://en.wikipedia.org/wiki/Fr%C3%A9d%C3%A9ric_Chopin
Post a Comment